.

Cải thiện chất lượng dân số vùng biển

Cập nhật: 19:15, 21/03/2018 (GMT+7)

Sau 9 năm triển khai thực hiện (từ năm 2009 đến nay), Đề án kiểm soát dân số các vùng biển, đảo và ven biển giai đoạn 2009-2020 (viết tắt là Đề án 52) đã góp phần nâng cao chất lượng dân số vùng biển, đảo. Phóng viên Báo BR-VT đã có cuộc phỏng vấn bác sĩ Tôn Thất Khoa, Chi cục trưởng Chi cục Dân số-Kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ) tỉnh về công tác triển khai thực hiện đề án này.

Bác sĩ Trung tâm Quân dân y huyện Côn Đảo khám và tư vấn sức khỏe cho người dân trên địa bàn huyện. 
Bác sĩ Trung tâm Quân dân y huyện Côn Đảo khám và tư vấn sức khỏe cho người dân trên địa bàn huyện. 

*  Phóng viên: Thưa bác sĩ, từ năm 2009 đến nay, Đề án 52 đã mang lại hiệu quả như thế nào đối với người dân các vùng biển, đảo và ven biển trên địa bàn tỉnh ?

- Bác sĩ Tôn Thất Khoa: Đề án 52 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt từ năm 2009 và chính thức thực hiện tại BR-VT từ năm 2010. Với nguồn ngân sách phân bổ cho Đề án hơn 24,4 tỷ đồng, trong thời gian qua, Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh đã phối hợp với các đơn vị triển khai đồng bộ các hoạt động của Đề án tại 7/8 huyện, thành phố vùng biển, đảo và ven biển (trừ huyện Châu Đức). Để nâng cao hiệu quả trong việc thực hiện Đề án, tỉnh đã thành lập 18 đội y tế - KHHGĐ lưu động để đưa dịch vụ y tế đến tận địa bàn dân cư. Địa điểm cung cấp các dịch vụ của đội lưu động là tại trạm y tế các xã ven biển. Qua đó đã đáp ứng được nhu cầu chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em, KHHGĐ, nâng cao chất lượng dân số khi sinh, phòng, chống bệnh lây truyền qua đường tình dục, phòng ngừa mang thai ngoài ý muốn, phá thai an toàn.

Việc triển khai thực hiện Đề án 52 với nhiều hoạt động đã mang lại lợi ích thiết thực cho người dân, nhất là phụ nữ vùng biển, ven biển không có điều kiện thuận lợi để tiếp cận các dịch vụ y tế. Từ khi triển khai đề án đến nay, hơn 3.400 người dân được cung cấp dịch vụ chăm sóc bà mẹ trẻ em, KHHGĐ, hơn 64.000 bà mẹ mang thai được tư vấn về các nguy cơ cao; hơn 21.800 người được tư vấn về phòng chống bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản, lây truyền qua đường tình dục...

Đến năm 2017, tỷ lệ các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ tại các vùng biển, đảo và ven biển áp dụng các biện pháp tránh thai hiện đại đạt 67,03%; Tỷ lệ người làm việc và người dân sinh sống trên đảo, ven biển, trong các KCN, khu chế xuất, KDL, khu kinh tế thuộc khu vực đảo, ven biển và trên biển được tiếp cận các dịch vụ sức khỏe sinh sản, KHHGĐ đạt 85%; Tỷ lệ sàng lọc trước sinh, sơ sinh đạt 70,5%. Đây là những chuyển biến tích cực, bởi trước khi thực hiện Đề án, những tỷ lệ trên tương đối thấp ở vùng biển, đảo, ven biển, có những nội dung chưa từng được triển khai (tầm soát ung thư phụ khoa, sàng lọc sơ sinh…).

*  Việc triển khai thực hiện Đề án 52 hiện tại đang gặp những khó khăn, vướng mắc gì, thưa bác sĩ?

Y sĩ của Trạm Y tế xã Bình Châu (huyện Xuyên Mộc) khám sàng lọc cho học sinh Trường MN Bình Châu. 
Y sĩ của Trạm Y tế xã Bình Châu (huyện Xuyên Mộc) khám sàng lọc cho học sinh Trường MN Bình Châu. 

- Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác triển khai thực hiện Đề án 52 vẫn còn một số khó khăn. Do đặc thù của người dân vùng biển thường xuyên di cư đánh bắt hải sản, dẫn đến sự biến động về dân số, gây khó khăn cho công tác quản lý dân cư ở các xã vùng biển, đảo và ven biển. Ngoài ra, do lao động đặc thù nghề biển nên nhu cầu sinh con trai ngày càng cao, gây khó khăn cho việc thực hiện mô hình 2 con, bảo đảm cân bằng giới tính và nâng cao chất lượng dân số. Nhận thức của chị em phụ nữ còn hạn chế trong việc thực hiện các biện pháp tránh thai hiện đại, chưa biết cách ngăn ngừa những yếu tố gây ảnh hưởng đến sự mang thai và chất lượng bào thai… Ngoài ra, chế độ đãi ngộ đối với lực lượng cộng tác viên hiện nay rất thấp, không ổn định dẫn đến thường xuyên thay đổi nhân sự. Mạng lưới cộng tác viên DS-KHHGĐ mới tại cơ sở chưa có nhiều kinh nghiệm, còn hạn chế trong việc tuyên truyền, tư vấn các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản - KHHGĐ cho người dân.

*  Thưa bác sĩ, để hoàn thành mục tiêu Đề án đặt ra, từ nay đến năm 2020, công tác kiểm soát dân số các vùng biển, đảo và ven biển của tỉnh sẽ tập trung vào những nhiệm vụ trọng tâm nào?

- Để hoàn thành mục tiêu đề án đề ra, trong thời gian tới, Chi cục DS-KHHGĐ sẽ tiếp tục triển khai hiệu quả các hoạt động, lồng ghép với chương trình quốc gia về DS-KHHGĐ. Trong đó, chú trọng đến việc duy trì mức sinh thấp hợp lý như hiện nay (110 trẻ trai/100 trẻ gái) và quan trọng nhất là tăng cường các hoạt động nâng cao chất lượng dân số tại các xã đảo, ven biển của tỉnh; Đẩy mạnh các hoạt động truyền thông, chuyển đổi hành vi trong việc chăm sóc sức khỏe của người dân vùng biển.

Ngoài ra, Chi cục sẽ phối hợp với các ngành chức năng kiểm tra, giám sát việc sử dụng công nghệ cao để lựa chọn giới tính thai nhi cũng như xử lý triệt để các ấn phẩm liên quan đến lựa chọn giới tính thai nhi trên địa bàn tỉnh; Phối hợp chặt chẽ giữa các ban, ngành, đoàn thể trong việc chăm sóc sức khỏe nhân dân nói chung và chăm sóc sức khỏe sinh sản, KHHGĐ nói riêng cho người dân vùng biển, đảo và ven biển.

*  Xin cảm ơn bác sĩ!

 BÙI HƯƠNG
(thực hiện)

Đề án kiểm soát dân số các vùng biển, đảo và ven biển tỉnh BR-VT giai đoạn 2009-2020 đặt mục tiêu đến năm 2020, quy mô dân số các vùng biển, đảo và ven biển của tỉnh không vượt quá 1,15 triệu người. Tỷ lệ các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ tại các vùng biển, đảo và ven biển áp dụng các biện pháp tránh thai hiện đại đạt 75%. Tỷ lệ người làm việc và người dân sinh sống trên đảo, ven biển, trong các KCN, khu chế xuất, khu du lịch, khu kinh tế thuộc khu vực đảo, ven biển và trên biển được tiếp cận các dịch vụ sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình đạt 95%. Tỷ lệ trẻ em tại các vùng biển, đảo và ven biển bị dị dạng, dị tật và thiểu năng trí tuệ do rối loạn chuyển hóa và do di truyền giảm bình quân hàng năm khoảng 5%.

 

.
.
.