Chuyện làng

Thứ Sáu, 05/08/2022, 16:46 [GMT+7]
In bài này
.

Đó là ngôi miếu nằm giữa cánh đồng, từ làng tôi băng qua con đê, qua hai cánh đồng dài, đến cái ao chuôm nước xăm xắp quanh năm. Ngôi miếu nằm bên cây duối cổ thụ chưa bao giờ có trái lấy một lần.

Minh họa của: MINH SƠN
Minh họa của: MINH SƠN

Bà nội tôi kể, ngôi miếu không biết được xây từ bao giờ, chỉ biết rằng từ đời ông cố tôi, ngôi miếu đã được xây dựng. Bên ngoài nhìn đơn giản nhưng vào trong trần và tường được chạm trổ khá công phu. Hình rồng, phượng và những hoa văn, hán tự cổ được chạm trổ tinh vi. Bao đời rồi, bom đạn, bão lũ dập xuống làng quê tôi, ngôi miếu vẫn nằm im lìm nép mình bên cây duối như không hề biết đến chiến tranh loạn lạc, hay thiên tai địch họa gì.

Người làng tôi mỗi khi đi qua cánh đồng trước ngôi miếu thường dừng lại vái mấy vái rồi mới đi. Ai trong làng có việc đi xa cũng không quên ra miếu thắp cây nhang. Thích nhất là tụi trẻ chăn bò, những trưa nắng nôi thả bò gần đấy là chạy vào miếu ngồi. Hôm nào gió mát có đứa lại ngủ quên cho đến khi bò ăn lúa no nê, người làng lôi tên cha mẹ ra réo um lên may ra đứa đó mới lồm cồm ngồi dậy ra lùa bò về. Những người đàn bà có con nhỏ làng tôi thường rỉ tai nhau, cứ hễ con nít quấy khóc, bế nó ra miếu ngồi chơi, về y như rằng chúng ăn no ngủ kỹ, ngoan cả tháng sau đó vẫn còn.

Đất làng tôi ven sông, mỗi mùa lũ qua đi sông để lại một lớp phù sa, nên làng tôi gieo trồng gì cuối mùa cũng bội thu. “Đất lành chim đậu”, người nơi khác bỏ xứ đến làng tôi lập nghiệp ngày càng đông. Người làng tôi thuần phác, hiền lành, lòng rộng rãi như sông, cứ hễ thấy người nơi khác đến sinh sống là tìm cách làm thân, có cơ hội lại ra tay giúp đỡ cho đến khi họ xem làng chính là nơi để trở về.

Năm đó lụt lớn, người làng ở hết trong nhà, lụt đi bão lại về quần tả tơi. Bão qua rồi người làng ra sông phát hiện một thiếu phụ đã chết, xác tấp trên bờ. Thiếu phụ xinh đẹp đó không phải người làng tôi, đáng thương là cô đang mang thai, có lẽ sắp đến ngày sinh nở. Người làng tìm tung tích cô, qua những làng lân cận, tuyệt nhiên không ai biết. Vậy là mỗi người một tay xúm lại lo cho mẹ con thiếu phụ mồ yên mả đẹp. Từ ngày đó, mọi sự trong làng dường như luôn thuận buồm xuôi gió. Sĩ tử thi đâu đỗ đấy, ai lên tỉnh buôn bán kinh doanh cũng phát đạt. Làng vốn trù phú lại càng ấm no.

Một ngày, sáng ra cụ già trong làng kể đêm qua chiêm bao, cụ thấy một thiếu phụ tay dắt đứa con trai nhỏ, khẩn khoản xin làng xây cho ngôi nhà để mẹ con nương náu. Cụ này kể ra ra, đêm sau lại một cụ khác cũng chiêm bao như thế, rồi đêm khác đến lượt các cụ kia. Cho rằng đó chính là ước nguyện của thiếu phụ đã trôi dạt về làng, vậy là bà con chung sức mỗi người một tay xây nên ngôi miếu.

Từ bao giờ, người làng tôi xem ngôi miếu thân thuộc như nhà, là nơi nghỉ chân mỗi khi ra đồng, nắng nóng, là chỗ dựa tâm linh cho người làng khi đi xa. Mùa hè năm đó tôi về quê, như mọi lần, tôi chạy ra đồng giữa trưa cùng tụi trẻ chăn bò. Thấy tôi vừa ra đến hiên, bà nội gọi giật:

- Chơi đâu thì chơi, không được vô miếu nghe chưa!

Tôi ngạc nhiên, bao năm nay về nội, ra đồng chơi gặp lúc nắng lên, tôi chạy vô miếu tránh nắng, nội biết được còn khen tôi giỏi, nay lại nói vậy.

- Sao con lại không được vô đó? - Tôi hỏi.

- Đã nói không được vô là không được vô! - Bà tôi cắn cảu.

Tôi chạy biến đi, chẳng dám đứng đó để nghe bà mắng mỏ.

Ra đồng giữa trưa, tôi thả diều với tụi chăn bò một lúc thì thấm mệt, tụi nó kéo tôi đi xa, đến bên bụi tre cuối làng ngồi tránh nắng. Lúc đi qua ngôi miếu, tôi chỉ vào trong hỏi thằng Tẹo.

- Sao không vô miếu?

- Không được! - Thằng Tẹo ghé tai tôi thì thầm - Có ma đó!

- Ma? Tôi ngạc nhiên - Mày bịa thì có.

- Tao không bịa, không tin mày về hỏi ông bà nội mày là biết.

Tôi ngồi chơi với tụi nó mà mắt cứ nhìn về ngôi miếu băn khoăn, xưa nay có nghe vậy bao giờ. Thấy tôi cứ nhìn về hướng đó, thằng Tẹo kéo tôi lại thầm thì: “Một lần, ông Ba Canh đang đêm ra ruộng, đi qua miếu ông nghe có tiếng rì rầm, ông nhìn vô thấy trong miếu có hai bóng đen. Đêm sau ra ruộng, ông đi qua lần nữa, vẫn thấy cảnh tượng đó. Ông về kể lại bà con trong làng, mọi người để ý thấy đúng như lời ông Ba Canh kể, chỉ khác là đêm có, đêm không. Ai cũng đoán hai bóng đen là hai mẹ con thiếu phụ xưa kia...”.

- Vậy sao không được vào? - Tôi ngơ ngác.

- Mày điên à? - Thằng Tẹo sấn tới trước mặt tôi - Muốn ở chung với ma à?

Tôi yên lặng nghe tụi nó chì chiết, cũng run khi nghĩ đến cảnh vô đó bỗng mấy con ma hiện ra.

Hè năm sau tôi về, việc đầu tiên là chạy ra đồng. Lần này trong đám bạn có thêm một thằng bé còi cọc, gương mặt lạ hoắc, tôi nghe tụi chăn bò gọi nó là Cỏ. Tôi tưởng thằng Cỏ ở làng bên sang chơi. Thả diều xong chúng tôi rủ nhau nhảy xuống ao chuôm, xong tụi nó lại kéo tôi về hướng ngôi miếu cởi áo ngồi hong. Đến trước cửa miếu, tôi dừng lại giật tay thằng Tẹo:

- Sao lại vô đó? Có ma mà?

Thằng Tẹo cười phá lên, cả bọn thấy vậy cũng cười theo. Xong, nó chỉ tay vào thằng Cỏ:

- Ma đó! Ma đó! - Nói rồi nó giả bộ làm ma, lấy tay banh cái miệng rộng ra tới tận mang tai, nhào về phía tôi.

Biết nó đùa, tôi đứng yên nhưng không khỏi băn khoăn.

Trong khi cả bọn nằm sóng xoài trên nền xi măng mát rượi, tôi vẫn đứng bên ngoài, thằng Cỏ thấy vậy nắm tay tôi:

- Chị vào trong cho mát, không có ma đâu! - Lần đầu tiên tôi nghe giọng nó, con trai mà nhỏ nhẹ dễ thương gì đâu.

Tôi theo nó vào trong, rồi cũng chẳng đứa nào quan tâm đến nỗi băn khoăn của tôi, tụi nó nhao lên bày đủ trò chơi, chỉ mỗi thằng Cỏ là ngồi tư lự nhìn ra cánh đồng. Tôi lại gần nó:

- Nhà em ở làng bên à?

- Không… - Nó lắc đầu, mắt vẫn nhìn ra cánh đồng.

Tôi nhìn thằng Cỏ, đôi mắt nó trong veo, một lúc tôi thấy trong mắt nó long lanh như có nước.

- Thế em ở đâu? Sao chị về hoài không gặp?

Thằng Cỏ im lặng cúi đầu, tay nó vân vê cái lai áo đã sờn, tôi nhìn thấy những móng tay cáu đen của nó run run cứ như đang làm điều có lỗi. Đoán nó có nỗi niềm gì đó, tôi không hỏi nữa mà rủ nó lên đồi tìm Dủ Dẻ. Vừa nghe tôi rủ, nó xăng xái đứng lên ngay.

- Đi đi chị! - Nó giục tôi.

Tôi và thằng Cỏ băng qua hết cánh đồng vẫn còn nghe tiếng tụi thằng Tẹo cãi nhau chuyện bẫy chim. Hái dủ dẻ bọc trong áo, tôi và thằng Cỏ về đến đầu làng trời đã chiều. Thằng Cỏ dừng lại mở bọc áo đầy dủ dẻ, đổ hết qua áo tôi.

- Em cho chị! - Nói rồi nó chạy biến vào sau sân miếu.

Thấy tôi trở về với một bọc dủ dẻ to trước bụng, bà nội tôi mắng yêu:

- Cha mày! Giang nắng từ trưa tới chiều được chừng đó đó hử?

Tôi cười toe, lom khom vào bếp tìm cái rổ, xong cởi gút áo đổ ra, được lưng lửng cái rổ mê, tôi bê ra giữa hiên, trước mặt ông bà nội như một “chiến công”. Nội tôi nhìn rổ dủ dẻ nghi ngờ: Đứa nào hái cho, chớ nó làm gì chui vô bụi hái được nhiêu đó!

Thấy ông nội ậm ừ ra chiều chẳng quan tâm, tôi ôm lưng bà nội thủ thỉ:

- Con hái được hai chùm, còn thằng Cỏ hái hết, nó cho con!

- Thằng Cỏ á? Sao không biểu nó vô ăn cơm luôn?

- Mà nó là con nhà ai hả nội, con hỏi nó không nói gì?

Bà tôi thủng thẳng vần nồi cơm vào đống tro, rì rầm kể, tôi ngồi yên lắng nghe. Hóa ra thằng Cỏ là con ông hát xẩm ở chợ làng bên. Ngày ngày thằng Cỏ dắt cha đi kiếm ăn, đêm về ngủ ở chợ. Rồi người ta phá chợ cũ, xây chợ mới. Cha con thằng Cỏ mất chỗ trú thân. Vậy rồi cha con nó tìm đến ngôi miếu ở làng tôi. Ngày lang thang kiếm ăn, đêm đến đợi xóm làng ngủ hết, cha con nó mới dắt nhau vào miếu ngủ nhờ, đợi hôm sau trời chưa sáng hẳn là sè sẹ đi vì sợ người làng phát hiện, không cho ngủ ở miếu thiêng.

Từ đó chuyện trong miếu cứ tối lại có hai bóng đen rì rầm tới khuya. Chuyện truyền tai từ người này sang người khác, cứ thế thêu dệt thêm. Đêm đó như mọi lần, cha con thằng Cỏ dắt nhau về miếu. Mấy ngày trước đó cha thằng Cỏ đã bệnh nhưng vẫn cố đi, đêm về đến cửa miếu, ông gục xuống. Thằng Cỏ đành chạy vào làng xin người làng tôi cứu giúp. Bà con chạy ra đưa cha nó vào trạm xá, bệnh nặng lâu ngày lại xuống sức, mấy ngày sau cha nó qua đời. Trước khi qua đời ông trăng trối xin bà con thương tình cưu mang thằng Cỏ, nó còn nhỏ dại.

Làng tôi mỗi người một tay lo cho cha thằng Cỏ, xong ai cũng sẵn sàng nhận Cỏ về nuôi. Cuối cùng làng cho Cỏ được quyền chọn. Cỏ xin về với vợ chồng ông Cang làng bên, ông bà chỉ có một người con ở xa. Từ ngày Cỏ về làm con ông bà Cang, làng xóm cách vài ba ngày có người lại mang đồ sang cho, khi thì ang lúa, lít dầu, lúc lại thì nải chuối, con gà… để ông bà Cang nuôi thằng Cỏ.

Bà tôi kể xong lọ mọ ra hiên giục ông tôi thắp cây đèn dầu cao ra giữa sân để dọn cơm. Tôi sắp chồng chén, mấy đôi đũa ra mâm rồi nhìn ra đồng, một làn khói mỏng bay lên như dải lụa mềm, nhà ai đang đốt đồng. Xa kia ngọn đồi xanh thẫm lại trong màn chiều, hương lúa theo gió quyện vào đến sân. Tôi hít hà “mùi quê” thấy lòng rưng rưng ấm. Quay sang bà đang xới cơm ra chén, tôi thầm thì:

- Ăn xong nội cho con qua nhà thằng Cỏ, con đem cho nó mấy củ khoai lùi.

Truyện ngắn của: VŨ NGỌC GIAO
 
;
.