Vì sao Australia "đoạn tình" với nhập cư?
Giữa làn sóng quay lưng với nhập cư trên toàn cầu, đến cả Australia cũng đang dần từ bỏ chính sách đã góp phần hình thành đất nước đa văn hóa ngày hôm nay.
Lễ hội mừng năm mới Sinhala của người Sri Lanka ở Melbourne, Australia. Ảnh: New York Times |
Năm ngày sau vụ khủng bố giết chết 50 người ở New Zealand, gây ra bởi một công dân Úc theo chủ nghĩa da trắng thượng đẳng cực đoan, Thủ tướng Australia Scott Morrison đã công bố một kế hoạch mà theo ông, sẽ giải quyết các thách thức nền tảng mà đất nước 25 triệu dân này đang gặp phải.
Thế nhưng, đây lại không phải một kế hoạch nhằm chống lại các nhóm cực đoan và tư tưởng chống Hồi Giáo. Nó lại là một kế hoạch cắt giảm nhập cư. Kế hoạch này của chính phủ đã trải qua quá trình soạn thảo trong nhiều tháng trời, và có thể sẽ là bước ngoặt lớn cho quốc gia phần lớn được hình thành bởi dân nhập cư này. Từ lịch sử là một thuộc địa của Anh, Australia trong gần 3 thập kỉ vừa qua đã trở thành một hình mẫu chứng tỏ rằng nhập cư, nếu được quản lý một cách đúng cách, có thể củng cố sức mạnh của một đất nước như thế nào. Giờ đây, giữa làn sóng quay lưng lại với nhập cư trên toàn cầu - một vấn đề đang làm dậy sóng chính trường Mỹ, Anh và phần lớn châu Âu, ngay đến cả Australia cũng đang quay đầu lại với chính sách chào đón những người nước ngoài có tay nghề cao đến nhập cư. Chính sách này đã giúp thúc đẩy phát triển kinh tế Australia suốt nhiều thập kỉ qua, và biến một quốc gia từng đóng cửa với người nhập cư da màu, thành một xã hội đa văn hóa - đa chủng tộc đầy màu sắc. Thủ tướng Morrison cho rằng: Đây là một chiến lược để giải quyết việc các thành phố lớn nhất Australia trở nên quá đông đúc, dẫn đến tắc nghẽn giao thông và giá nhà đất tăng cao. Kế hoạch này là nhằm bảo vệ chất lượng sống của người Úc trên khắp cả nước.
Những lo ngại trên ngày một phổ biến khi dư luận trong nước đang kịch liệt phản đối việc gia tăng dân số. Tuy vậy, có những ý kiến lo lắng cho rằng những phàn nàn về “chất lượng cuộc sống” này đã bị thổi phồng – và cũng có thể đang được thao túng để lấp liếm cho những tư tưởng sâu xa hơn liên quan đến làn sóng nhập cư từ các nước ngoài châu Âu, đặc biệt là các nước Hồi Giáo, bênh cạnh các nước châu Phi và châu Á.
Không thể chối cãi rằng dân số Australia đang thay đổi chóng mặt, nhưng cũng không thể gạt bỏ những lợi ích mà nó mang lại. Từ những năm 1990, dân số nước này đã tăng gần 40%, từ 18 triệu lên 25 triệu dân. Các chuyên gia kinh tế tranh luận rằng, nếu không có làn sóng nhập cư ồ ạt này, việc Australia giữ kỉ lục tăng trưởng kinh tế liên tục trong vòng 27 năm mà không có suy thoái, là điều không thể xảy ra.
Phần lớn trong số 4.7 triệu người nhập cư cập bến Australia từ năm 1980 là người có trình độ cao, đặc biệt là từ năm 2004, mỗi năm trung bình có khoảng 350.000 sinh viên và người lao động có tay nghề nhập cư vào nước này. Theo điều tra dân số năm 2016, hơn 1 trong 4 (25%) người Úc sinh ra ở nước ngoài, so với 13,7% dân số nước Mỹ và 14% ở Anh. Trong đó, 6/10 quốc gia có nhiều người nhập cư vào Úc nhất là các quốc gia châu Á. Trung Quốc dẫn đầu với 509.558 người. Ấn Độ đứng thứ 2 với 455.385 người. Việt Nam đứng thứ 4 với 243.200 người.
Rất nhiều người Úc cho rằng đã đến lúc xu hướng đa dạng hóa này phải dừng lại. Trong một cuộc khảo sát gần đây, hơn 2/3 người dân cho rằng đất nước của họ không cần thêm người nữa. Cách đó không quá lâu, mới vào năm 2010, đa số người Úc còn đang giữ quan điểm ngược lại.
Ông Morrison và đảng Tự Do thường sử dụng các quan điểm chống nhập cư để kêu gọi ủng hộ từ bộ phận cử tri bảo thủ của mình. Rõ ràng, họ tin rằng nhập cư sẽ là một vấn đề mấu chốt giúp họ chiến thắng trong cuộc tổng tuyển cử diễn ra vào 18-5 tới. Chính phủ Australia đã làm chậm lại quá trình duyệt hồ sơ visa, và dự kiến sẽ cắt giảm 30.000 người khỏi hạn mức nhập cư, xuống còn 160.000 người mỗi năm. Đây là mức cắt giảm thường niên lớn nhất từ những năm 1980 tới nay. Ông Morrison cũng có ý định điều chỉnh chính sách visa tay nghề để ngăn người nhập cư mới đến sống ở các thành phố lớn. Những người nhận visa này sẽ bị yêu cầu làm việc ở các vùng hẻo lánh ít nhất 3 năm trước khi có thể trở thành thường trú nhân. Trong khi đó, đảng đối lập là Đảng Lao Động thì hầu hết đang né tránh vấn đề này. Họ biết rõ nó đã giúp các đảng bảo thủ thắng thế như thế nào ở Anh và Mỹ, nơi Tổng thống Trump gần đây tuyên bố rằng đất nước của ông đã “đầy”.
LINH NGUYỄN