.

Linh hoạt ứng phó hiệu quả trong tình trạng khẩn cấp

Cập nhật: 16:36, 27/05/2025 (GMT+7)

Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV, ngày 27/5, Quốc hội nghe Tờ trình và Báo cáo thẩm tra dự án Luật Tình trạng khẩn cấp.

Quang cảnh kỳ họp.
Quang cảnh kỳ họp.

Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình, Đại tướng Phan Văn Giang, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng cho biết, việc ban hành Luật Tình trạng khẩn cấp nhằm thể chế hóa chủ trương, quan điểm của Đảng về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; khắc phục hạn chế, bất cập trong thực tiễn, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của pháp luật về tình trạng khẩn cấp, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Dự thảo luật gồm 6 chương, 42 điều. Trong đó, chương II gồm 4 điều (từ Điều 9 đến Điều 12) quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban bố, công bố, gia hạn, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp; nội dung của Nghị quyết ban bố, Lệnh công bố tình trạng khẩn cấp; chấm dứt hiệu lực của các văn bản pháp luật về tổ chức thi hành Nghị quyết ban bố, Lệnh công bố tình trạng khẩn cấp.

Luật quy định: “Căn cứ diễn biến thảm họa, dịch bệnh, tình hình quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và trên cơ sở đề nghị của các bộ hoặc chủ tịch UBND cấp tỉnh, Thủ tướng Chính phủ đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban bố tình trạng khẩn cấp, trong trường hợp Ủy ban Thường vụ không thể họp ngay thì Thủ tướng Chính phủ đề nghị Chủ tịch nước công bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương”.

Chương III gồm 12 điều (từ Điều 13 đến Điều 24), quy định về các biện pháp được áp dụng trong tình trạng khẩn cấp khi có thảm họa lớn về thiên tai, ô nhiễm môi trường, sự cố bức xạ và hạt nhân, dịch bệnh, trong tình trạng khẩn cấp về an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, về quốc phòng; các biện pháp khắc phục hậu quả; huy động nguồn lực, cứu trợ, hỗ trợ; chế độ, chính sách đối với tổ chức, cá nhân tham gia ứng phó, khắc phục tình trạng khẩn cấp.

Nhằm phân cấp, phân quyền và bảo đảm linh hoạt để ứng phó kịp thời với các tình huống trong tình trạng khẩn cấp, luật quy định: Trường hợp cần thiết, Thủ tướng Chính phủ có thể áp dụng các biện pháp mà pháp luật hiện hành chưa quy định và báo cáo cơ quan có thẩm quyền của Đảng, Quốc hội trong thời gian gần nhất để phù hợp với quy định tại Luật Tổ chức Chính phủ năm 2025; chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định áp dụng các biện pháp mà pháp luật hiện hành chưa quy định và báo cáo cơ quan có thẩm quyền của Đảng và Thủ tướng Chính phủ trong thời gian sớm nhất để phù hợp với quy định tại Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025.

Theo Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại của Quốc hội, Ủy ban nhất trí về sự cần thiết ban hành luật với những căn cứ chính trị, pháp lý, thực tiễn như đã nêu trong Tờ trình của Chính phủ. Dự thảo luật đã cơ bản bám sát chủ trương, đường lối của Đảng; phù hợp với Hiến pháp, cơ bản bảo đảm tính thống nhất với hệ thống pháp luật, tương thích với điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên; bảo đảm tính khả thi, đáp ứng các yêu cầu thực tiễn.

Về phạm vi điều chỉnh, luật này không thay thế các luật chuyên ngành đang điều chỉnh các vấn đề liên quan đến tình trạng khẩn cấp. Tuy nhiên, việc xác định tình trạng khẩn cấp trong các luật chuyên ngành chưa đầy đủ, cụ thể, do đó cần nghiên cứu, quy định về xác định tình trạng khẩn cấp, thẩm quyền, biện pháp áp dụng trong tình trạng khẩn cấp trong luật này cho đầy đủ, phù hợp, bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật về tình trạng khẩn cấp.

Về các biện pháp được áp dụng trong tình trạng khẩn cấp (chương III), Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại nhận thấy, quy định về các biện pháp được áp dụng trong tình trạng khẩn cấp là rất quan trọng, tạo tính thống nhất để áp dụng khi xảy ra tình trạng khẩn cấp.

Về lực lượng thi hành trong tình trạng khẩn cấp, có ý kiến đề nghị nghiên cứu bổ sung quy định có tính nguyên tắc về ban chỉ đạo, ban chỉ huy tình trạng khẩn cấp; ý kiến khác đề nghị nghiên cứu, khi ban bố tình trạng khẩn cấp thì chuyển vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Ban chỉ đạo Phòng thủ dân sự quốc gia và Ban Chỉ huy phòng thủ dân sự thành Ban Chỉ đạo tình trạng khẩn cấp và Ban Chỉ huy tình trạng khẩn cấp để bảo đảm tính liên tục, thuận lợi, thống nhất trong chỉ đạo, chỉ huy khi ban bố tình trạng khẩn cấp.

Trường hợp không quy định ban chỉ đạo, chỉ huy riêng thì Ban Chỉ đạo và Ban Chỉ huy Phòng thủ dân sự sẽ kiêm nhiệm chỉ đạo, chỉ huy trong tình trạng khẩn cấp.

LAN ĐỨC

.
.
.