.

Phan Quang về bến Sông Nhùng!

Cập nhật: 08:34, 21/09/2018 (GMT+7)

Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) vừa tổ chức mừng thượng thọ cựu Tổng giám đốc nhà báo, nhà văn  Phan Quang  90 tuổi, giới thiệu tuyển tập “Phan Quang 90 tuổi đời - 70 tuổi nghề”.  Cây đại thụ, nhà báo, nhà văn  Phan Quang, sinh ra và  lớn lên tại làng Thượng Xá, xã Hải Thượng, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Tuổi cao, nhưng Phan Quang vẫn say mê “Đọc, đi, nghĩ, viết”, như ông  thường nói.  Tháng 5.2018, từ thủ đô Hà Nội “lão tướng” Phan Quang đã có cuộc hồi hương, trở lại quê nhà  Quảng Trị  nơi  bến sông Nhùng & dòng Thạch Hãn đầy ắp  cảm xúc và  kỷ niệm  cuộc đời.

Nhà báo Phan Quang cùng chị gái 96 tuổi ở quê nhà  Quảng Trị.
Nhà báo Phan Quang cùng chị gái 96 tuổi ở quê nhà Quảng Trị.

Thành phố  Huế cách tỉnh lỵ Quảng Trị hơn một giờ xe hơi. 9 giờ sáng ngày 12.5, chúng tôi đến huyện Hải Lăng. Bầu trời  miền Trung trong xanh không một gợn mây, nắng chói chang, vừa sáng sớm, nhiệt độ ngoài trời đã 35, 36 độ C.   Phan Quang đề nghị chúng tôi ghé thăm nghĩa trang gia tộc thắp hương cho ông bà nội ngoại, cho thân phụ và thân mậu, tưởng niệm bà con trong dòng tộc. Điều  mà chúng tôi rất cảm phục, đó là trí nhớ tuyệt vời của ông. Phan Quang rời làng Thượng Xá, xã Hải Thượng đi theo kháng chiến từ năm 1947 – 1948, lần nào ông trở về quê  cũng ngập tràn cảm xúc, nhớ về quá khứ không sót một chi tiết nhỏ nào.

Thời điểm Phan Quang lên căn cứ, quân Pháp từ Huế tràn ra Quảng Trị. Cả làng Thượng Xá  tản cư lên Nà Tiên, thân mậu  Phan Quang là cụ Văn Thị Thiện lâm bệnh rồi qua đời trong  năm tản cư 1947. Thân Phụ  là cụ Phan Thanh Tấn một mình vò võ bươn chải chèo chống dòng đời giữa bao gian khó, hiểm nguy, chỉ còn 6 tháng nữa là miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, non sông liền một giải thì thân phụ qua đời tại Tp. Đà Nẵng, trên  tay bà chị gái và  mấy đứa cháu ngoại. Sau này, các con cháu mới có điều kiện đưa phần mộ của cụ về Hải Thượng quê nhà. Ông vừa nói, vừa lấy khăn lau dòng lệ trộn với những giọt mồ hôi chảy dài trên má, giữa cái nắng  gay gắt trưa hè Quảng Trị. Ông tâm tình với chúng tôi, thế hệ làm báo lớp sau, câu chuyện bị ngắt quãng, bởi dòng cảm xúc dâng trào, chặn lại:

- Mẹ tôi mất sớm từ năm 1947, do lâm bệnh ở vùng núi thiêng nước độc Nà Tiên dưới chân núi Trường Sơn. Gặp lúc mẹ tôi đang đau nặng, cha tôi, các chị gái, ông anh rể mặt buồn rười rượi. Và ai cũng  không dấu được thoáng mừng khi nhìn thấy bóng tôi, thằng con trai út ít duy nhất trong nhà  từ con đường mòn ven sông  trên căn cứ đi  về đang trèo lên dốc. “Bà thiêng lắm, bà chờ cậu về bà mới chịu đi đó” – ông anh rể thì thầm vào tai tôi sau khi lễ táng cho mẹ xong, mọi người vác cuốc về nhà, tôi ôm bát hương trong tay. Chỉ mới đêm trước đó, tiết trời sương giáng giữa chốn rừng xanh, khói mây mù mịt, mưa bụi lai rai. Tôi cúi mặt xuống  sát giường, để nghe cho rõ lời mẹ tôi thì thào: “Mạ chết … con … cho mạ … cái áo … Độc lập … đưa mạ … về làng”…

Phan Quang đứng đó lặng thầm,mắt rướm lệ. Ông vừa đốt nén hương trầm,  ông không nói với chúng tôi nữa mà giọng  thì thầm, như nói với  cha, với mẹ:

-  Con  xa quê,  chia tay  cha kính yêu sau ngày mạ (mẹ) qua đời rồi biền biệt đi kháng chiến. Hải Thượng chìm ngập trong bom đạn, với những trận càn đẫm máu. Nghĩa trang liệt sĩ của xã  nằm đó, ngay đây thôi với gần 2.000 ngôi mộ  khói hương  nghi ngút mỗi ngày. Trước ngày tiếp quản Hà Nội, tháng 10 năm 1954, con được cấp trên điều động về thủ đô  Hà Nội làm phóng viên Báo Nhân Dân trụ sở bên bờ Hồ Gươm, cha ở lại  bên kia giới tuyến tạm thời, dòng sông Bến Hải đẫm máu và nước mắt người thân. Đến khi Mỹ sắp cút, ngụy sắp nhào, con đau đáu từng giờ, từng ngày mong sớm  được  về Nam  gặp cha, thì cha lại ra đi sớm hơn từ nơi chạy giặc ở Đà Nẵng, trước thềm  mùa Xuân năm 1975. Mạ ơi, sau ngày quê hương sạch bóng quân thù, chúng  con đã đưa cha từ dặm cát bên biển Đà Nẵng về đây cùng mạ, cùng   ông bà … mạ ơi … cha ơi …  

Giọng nói nhỏ  xúc động của Phan Quang  trên khu nghĩa trang,  mỗi chúng tôi  đi bên ông khi mái tóc công đã bạc trắng,  tuổi cửu thập, buổi trưa hè cũng nghẹn lời, đôi mắt ai cũng nhòa lệ nhìn vào khoảng trống xa xăm … Mỗi phần mộ trong dòng tộc là một câu chuyện dài. Phan Quang nhớ rành rọt, kể cho chúng tôi nghe về từng người ruột thịt, không thiếu ai. Ví như khi đến phần mộ cụ Lâm Thị Định, bà ngoại  Tướng Cao Văn Khánh,  phó tổng tham mưu trưởng quân đôi nhân dân Việt Nam, hai anh em con cô – cậu ruột với nhà báo Phan Quang. Ông hỏi chúng tôi đã đọc cuốn hồi ký lịch sử “Tường Cao Văn Khánh”  vừa xuất bản đầu năm 2018  chưa? Và ông kể cho chúng tôi bao chuyện buồn vui, cả những bi kịch về  vị tướng trí thức  một lòng một dạ đi theo cách mạng, tài đức vẹn toàn, khi về với thế giới người hiền do lâm bệnh hiểm nghèo. Vợ ông – một trí thức tên tuổi dòng dõi hoàng tộc đã cùng ông đi hết hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Thế mới biết sức nhớ, sức đọc phi thường, sự thông tuệ thời cuộc - thế sự  của chính khách Phan Quang,  cây đại thụ báo chí nước nhà.

Sự thông tuệ, minh mẫn, giàu cảm xúc từ con tim  Phan Quang chưa hết. Trên khu vườn cũ, nơi ông cất tiếng khóc chào đời, ngần ấy thời gian,  nay đã nhiều đổi thay. Nhưng Phan Quang không quên bất cứ điều gì, tất cả đã như khắc cốt ghi tâm. Đi bên cạnh chúng tôi, ông nói, như tâm tình  với chính mình:

- Đây là lối rẽ ra bến sông Nhùng, phía sau nhà. Tuổi thơ, mỗi ngày 3 cữ lũ trẻ chúng tôi ào ra bến sông bơi ngang, bơi dọc  săn đuổi chim, vui lắm. Chúng bạn ngày ấy nay chỉ còn lại duy nhất thằng cu Diêu  (tên khai sinh  của ông) bơi nhanh như con ráy cá. Kia là khu nhà mà đức vua Hàm Nghi trên đường ra Bắc hạ chiếu Cần vương chống  quân xâm lược Pháp  đã ngủ lại qua đêm, nhờ cái lộc  Ngự Sử của ông nội Phan Thanh Tân. Đằng kia nữa là quán bà Thập Dụ, nơi buộc hai con voi của đức vua Hàm Nghi …

Nhà báo Phan Quang cùng tác giả bài viết bên bốt cầu Nhùng (xã Hải Thượng, Hải Lăng, Quảng Trị)
Nhà báo Phan Quang cùng tác giả bài viết bên bốt cầu Nhùng (xã Hải Thượng, Hải Lăng, Quảng Trị)

Làng Thượng Xá – Hải Thượng nằm sát ngay bên Thành Cổ Quảng Trị.  Mỗi góc vườn, góc sân, đoạn đường, bến sông, chiếc cầu, cái lô cốt vùng quê anh hùng, son sắt một dạ với cách mạng  như sống dậy, đung đưa, nhảy múa  trước đôi mắt  tinh tường, sự  minh mẫn đến lạ của “lão tướng” Phan Quang. Tất cả như một bộ phim có nhạc, có họa lung linh  tỏa sáng, trở về  bao kỷ niệm  tuổi thơ. Có lúc Phan Quang hồ hỡi, hoạt bát hẳn lên, nhưng  có thời điểm ông đứng im, không nhúc nhích,  như một pho tượng sống.  Đó là khi mà ông đang nghĩ suy, đang sống lại với những kỷ niệm cuộc đời, về thời cuộc và  nhân tình thế thái.  Rồi ông cùng  chúng tôi đội nắng về thăm nhà thờ Phái, nhà thờ Họ, thăm cây bồ đề ông đưa từ Đà Nẵng về trồng trong sân từ đường họ Phan, nay đã bén rễ  xanh tốt. Cây bồ đề góc  trái sân từ đường do Phan Quang trồng; cây bồ đề góc phải sân do gia đình ông Phan Giá -  người anh con bác ruột trồng, rung rinh trước gió như lời hẹn ước, họ Phan làng Thượng Xá, dù đi đâu, về đâu, làm bất cứ công việc  gì vẫn một dạ hướng về cội nguồn,  sống hiếu nghĩa, luôn xứng đáng  với tổ tiên, quê hương, đất nước.

 Chiếc xe 4 chỗ  đưa chúng tôi đi dọc  đại lộ “Kinh hoàng”, phía Nam sông sông Thạch Hãn. Hàng trăm bà con vùng Hải Lăng, Triệu Phong đã ngã xuống bởi bom đạn, pháo  dập từ cả hai phía địch và ta, khi Thành Cổ Quảng Trị thất thủ trong chiến dịch xuân hè năm 1972 của bộ đội giải phóng.  Và  đây là con đường Thiên lí, con đường mà đức vua Hàm Nghi đã hành quân ra miền Trung hạ chiếu Cần vương đánh Pháp. Đây cũng  con đường “Không vui” mà bọn giăc Pháp, giặc Mỹ vẫn thường nói, báo chí – văn học nước Pháp, nước Mỹ đã miêu tả không biết bao nhiêu trang giấy, bởi trên con đường này đã có hàng trăm tên lính xâm lược bỏ mạng trước họng súng quân du kích và bộ dội giải phóng. Đây nữa, đoạn đường này, bà con làng Thượng Xá đã trải chiếu hoa – thường để trải  nơi trang trọng, trong sân đình ngày lễ hội đón vua quan, các lão làng – để cho bộ đội giải phóng từ các bưng bùn, đường đất  lầy lội  hành quân vượt lộ, tiện xóa dấu vết khi quân địch  tổ chức truy quét.  Ông dẫn chúng tôi thăm cầu Nhùng, lô cốt Nhùng, về bến sông Nhùng sau vườn nhà, nơi tuổi thơ ông vẫn cùng chúng bạn bơi lội, tắm mát và  đứng trên bờ hò reo cổ vũ các hội đua thuyền hằng năm vào ngày mùng 2 tết nguyên đán…

Chúng tôi đã nhiều lần cùng đi với nhà báo, nhà văn  Phan Quang,  làm việc dưới quyền ông. Nhưng quả thật, chúng tôi vẫn chưa hiểu hết nỗi lòng, những tâm sự ẩn khuất từ trái tim  - trong sâu thẳm cõi lòng một nhà báo già đáng kính. Chính khách, nhà văn hóa  tầm cỡ, uyên bác Phan Quang  đã sinh ra - lớn lên, rồi ra đi và  trở về quê Mẹ  khi tuổi ông đã vào mùa đông cuộc đời, giữa trưa hè lộng gió, nắng gắt hôm nay. Có cái gì đó rất nghẹn lời từ ông truyền sang cho chúng tôi,  khi kết nối sự kiện lịch sử “Mùa hè đỏ lửa”  năm 1972 bên Thành Cổ, trên dòng Thạch Hãn, hàng vạn chiến sĩ, đồng bào đã anh dũng ngã xuống  và mùa hè   2018 hôm nay, khi chúng tôi lại về đây với bến sông Nhùng, bến sông Thạch Hãn và bên Thành Cổ anh hùng, uy nghi -  tráng lệ…

Giọt nước mắt long lanh thấm đẫm nơi khóe mắt, càng làm cho chính khách, nhà báo, nhà văn, nhà văn hóa, nguyên Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam   Phan Quang  thêm rạng rỡ,  tâm trí ông càng thêm rạng ngời.

Ghi chép : PHẠM QUỐC TOÀN

Còn ắp sức xuân

Nguyễn Hồng Vinh

Kính tặng Nhà báo, nhà văn Phan Quang vào tuổi 90

Trước mặt tôi ,

Hàng ngàn trang sách

Chắt ra từ vạn vạn trang đời

Của chín mươi năm cuộc người

70 năm đời bút!

 

Có những từ

Như một bông hoa lạ

Có những trang làm ta ứa lệ

Cồn cào thương nhớ đầy vơi…

 

Đất quê anh đá sỏi

Nắng lửa rèn nung

Đồi sim không đủ quả([1])

Cùng rau, cháo cầm hơi!

 

Anh qua khu 4, khu 3, rồi Việt Bắc

Cùng dân tộc đồng hành thời kháng Pháp

Nghề văn, nghiệp báo đâu ngờ

Gắn cuộc đời ta từ đó!

 

Non sông liền giải

Từ Lạng Sơn

đến Cà Mau đất Mũi

Những trang phóng sự

Thổi mát lòng người

Sinh nở mùa vàng tươi mới!

 

Thế giới có Việt Nam

Qua trang viết PHAN QUANG

Ta tiếp nhận tinh hoa nhân loại

Qua dịch thuật PHAN QUANG

Người tiếp lửa nhịp cầu Hữu nghị!

 

Vượt xa “Cổ lai hi”

Cửu thập niên trường

Trí tuệ dồi dào

Tuôn trào bút lực

Tằm nhả tơ

Sáng óng từng con chữ!

Ấm nóng

Tình đời, Tình bạn…


[1] Ý thơ Chế Lan Viên

 

.
.
.