Quê ngoại tôi ở bên kia sông. Hồi nhỏ thỉnh thoảng tôi vẫn được theo mẹ về quê ngoại. Hai mẹ con phải qua một chuyến đò ngang, qua con đê dài, qua vài ngôi làng. Dừng chân ở quán nước nhỏ dưới gốc đa, uống bát nước chè xanh, ăn vài chiếc kẹo bột nhỏ như viên bi rồi đi tiếp. Qua một cánh đồng mênh mông nữa mới nhìn thấy bóng dáng quê ngoại - rặng tre xanh mờ, loáng thoáng ẩn hiện vài nếp nhà tranh đơn sơ…
Về quê ngoại, thích nhất là ở chơi nhà bác Thu. Bác Thu có anh con trai tên Tùng. Hơn tôi năm, sáu tuổi, anh ấy hiền lành, ít nói và rất chiều tôi. Anh đẽo cù, làm diều hay làm đèn kéo quân tuyệt khéo. Sau này, khi đã là bố trẻ, rằm Trung thu hay về quê vào dịp bọn trẻ nghỉ hè, tôi cũng phất diều hay làm đèn kéo quân cho con là nhờ hồi nhỏ học lỏm được mấy “ngón nghề” quý hóa của anh Tùng.
Những hôm rỗi rãi, anh dẫn tôi ra vườn chơi. Mảnh vườn rộng trồng toàn chè. Những cây chè mọc thẳng, cao quá đầu người, lá xanh thẫm, không giống những luống chè lúp xúp trên đồi, trên nương chè sau này tôi thấy ở Thái Nguyên, Phú Thọ hay Lâm Đồng… Muốn hái chè ở vườn nhà bác tôi phải bắc chiếc ghế cao cạnh gốc cây rồi trèo lên hái. Đây là giống chè chỉ hái lá để nấu nước uống, gọi là nước chè xanh, chứ không hái búp rồi chế biến thành thứ chè khô như ở các vùng chè nổi tiếng khác. Bác tôi nghiện nước chè xanh, thường nói nửa đùa nửa thật: thiếu cơm thiếu gạo không sao, chứ thiếu bát nước chè thì con ruồi đậu mép không buồn đuổi. Ngày nào bác cũng phải hãm một ấm tích chè xanh để uống cả ngày.
Bác tôi chân yếu, không dám trèo ghế cao. Ngày nào anh Tùng cũng phải hái chè cho bác. Nhà chỉ hai mẹ con, mỗi khi có việc đi vắng ít ngày, anh hái sẵn cho bác cả rổ chè uống dần.
Năm anh Tùng 17 tuổi cũng là năm cả nước bước vào thời kỳ chiến tranh ác liệt nhất. Nhà con một, lẽ ra được tạm hoãn nghĩa vụ quân sự, nhưng anh vẫn viết đơn tình nguyện nhập ngũ. Năm lần bảy lượt xin đi, cuối cùng nguyện vọng của anh cũng được chấp nhận. Bác tôi một mình lọ mọ ở nhà. Nghĩ đến thói quen uống nước chè xanh của bác, lại thấy thương. Đành rằng đôi khi có thể nhờ cậy hàng xóm láng giềng, nhưng nói chung hồi đó ai cũng bận rộn. Ngoài công việc đồng áng, mọi người còn phải lo bao thứ việc thời chiến khác… Một lần đến thăm bác, thấy vườn chè thưa thoáng hẳn. Những gốc chè vẫn đó, nhưng cành lá xác xơ, ủ rũ. Hóa ra cây cũng héo hon, buồn bã vì vắng hơi người, vắng sự quan tâm chăm sóc của người. Tôi bắc ghế trèo lên, hái cho bác nắm chè tươi dùng trong ngày, rồi hái thêm một ít nữa dành sẵn…
Nhưng cũng chỉ ít ngày sau, khi qua nhà bác, tôi ngạc nhiên thấy vườn chè như được hồi phục sau trận ốm. Tươi tỉnh, xanh tốt. Hỏi ra mới biết, có một chị ở xóm bên tranh thủ lúc đi làm đồng về, ghé qua nhà hái chè cho bác. Một vài ngày chị ghé một lần. Có lần chị còn lội xuống cái ao gần đó, xúc từng gầu bùn đổ xuống từng gốc chè, cho chè “ăn”. Dù là người cùng làng, biết nhau thì biết, nhưng xưa nay chị vốn không phải là chỗ quá thân quen…
* * *
Chiến tranh kết thúc, anh Tùng trở về. Trải qua những năm tháng bom đạn ác liệt ở chiến trường, anh vẫn khỏe mạnh, lành lặn. Việc lớn nhất trong đời anh lúc này là… cưới vợ.
Nhận được tin mừng, tôi vội “phi” sang với bác và anh. Đám cưới hồi đó theo lối “đời sống mới”, vui là chính, không bày vẽ cỗ bàn, mâm bát, tiệc tùng la liệt ở nhà hàng như bây giờ. Mấy thanh niên trong xóm đến nhà, trai thì giúp bắc rạp, nữ thì lo nước nôi, bày biện bàn ghế... Tiệc cưới chỉ có một ít bánh kẹo, đĩa trầu cau têm cánh phượng và thuốc lá - những điếu thuốc lá sợi cuốn bằng tay, bó tròn thành từng bó ba, bốn chục điếu. Và đương nhiên không thể thiếu nước chè xanh ủ trong giành tích - thứ nước uống truyền thống của dân làng cũng như của bác tôi, được nấu bằng lá chè tươi hái ngay trong vườn nhà.
Trong không khí đám cưới tưng bừng, có lẽ tôi là người được dành cho điều bất ngờ nhất, vui nhất: cô dâu chính là người con gái xóm bên, người thường xuyên đến hái chè, chăm sóc vườn chè cho bác tôi trong những ngày anh Tùng ngoài mặt trận.
Ngồi nhấp ngụm chè xanh ở đám cưới anh Tùng, lần đầu tiên tôi cảm nhận được hết vị ngọt ngào thơm thảo của tâm hồn người dân quê ủ kín trong thứ nước uống hàng ngày, vừa dân dã vừa nồng hậu…
LÝ CHƯƠNG