.

Hào khí Lam Sơn tỏa rạng trường tồn cùng khí phách dân tộc !

Cập nhật: 13:29, 17/09/2022 (GMT+7)

Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Bình Định vương Lê Lợi khởi xướng và lãnh đạo đã nổ ra vào mùa xuân năm Mậu Tuất 1418 ở núi Lam Sơn. Trải qua hơn 6 thế kỷ, hào khí Lam Sơn vẫn sẽ luôn tỏa rạng cùng khí phách dân tộc trên chặng đường tranh đấu nhằm khẳng định uy tín và vị thế quốc gia.

Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn được các nhà nghiên cứu đánh giá là một trong những cuộc chiến tranh giải phóng có quy mô lớn và cực kỳ gian khổ trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta.

Cùng với huy động sức mạnh Nhân dân là căn nguyên cho thắng lợi, theo PGS Vũ Ngọc Khánh, khởi nghĩa Lam Sơn đã “tự đặt ra được những vấn đề như lấy tư tưởng chí nhân, đại nghĩa để chỉ đạo chiến lược, lấy phương thức dùng yếu đánh mạnh, lấy ít địch nhiều để chỉ đạo chiến thuật. Khởi nghĩa Lam Sơn cũng đặt ra được vấn đề gắn bó đồng nhất giữa lòng yêu nước và tình thương dân, để xác định được quyền lợi dân tộc, quyền lợi đất nước và khai thác được sức mạnh vĩ đại của Nhân dân vào cuộc chiến tranh giải phóng. Khởi nghĩa Lam Sơn cũng nêu lên được đường lối tha thiết với hòa bình, đồng thời với lòng căm ghét chiến tranh và giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh với những thuận tiện tối đa, cùng tổn thất tối thiểu. Chưa một cuộc khởi nghĩa nào trong lịch sử nước ta, trước Cách mạng Tháng Tám, nêu được những vấn đề có ý nghĩa lý luận như vậy. Lê Lợi là người lãnh tụ duy nhất có ý thức xuất phát từ đường lối tư tưởng được quan niệm thành học thuyết hẳn hoi và cũng kiên trì với chủ thuyết của mình.

“Vật gốc ở trời, người gốc ở tổ”. Hướng về cội nguồn không chỉ là đạo lý dân tộc, mà còn thuận với ý trời, hợp với lòng người. Bởi vậy, sau khi đăng quang, Vua Lê Thái tổ đã đổi tên vùng đất Lam Sơn thành Lam Kinh (hay Tây Kinh) để phân biệt với Đông Kinh (Thăng Long). Đây không đơn thuần chỉ là việc đổi cách gọi tên, mà nó mang ý nghĩa về sự tôn kính của nhà vua đối với quê cha đất tổ; đồng thời, khẳng định vai trò, vị thế của vùng “đất căn bản làng vua” - nơi khởi nghiệp đế vương của triều đại hậu Lê. Cũng từ đây, Lam Kinh trở thành “kinh đô tưởng niệm” - nơi yên nghỉ vĩnh hằng của các vua và hoàng thái hậu thời Lê sơ. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hảo: “Đại Việt có Đông Đô ở đồng bằng Sông Hồng, có Lam Kinh ở đồng bằng Sông Mã - một quốc gia giàu mạnh, để láng giềng nhìn vào. Ý thức tự tôn dân tộc, cái hào khí sau ngày đại thắng là lý do sâu xa để triều Lê sơ xây dựng Lam Sơn trở thành Lam Kinh!”.

Điều đó phải chăng cũng chứng tỏ, việc xây dựng Lam Kinh còn mang nhiều dụng ý sâu xa hơn? Lý giải điều này, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hảo cho rằng: Sau 20 năm đô hộ của nhà Minh, những giá trị văn hóa do các triều đại trước gây dựng nên đã bị hủy hoại nghiêm trọng. Do vậy, việc xây dựng Lam Kinh trở thành lăng miếu để thờ phụng tổ tiên và một số vua nhà Lê mang ngầm ý: Nhà Minh muốn tàn phá nước Đại Việt, chúng đã quật phá mồ mả tổ tiên của Lê Lợi, thì nay đất nước này vẫn tồn tại, Lam Sơn đã trở thành Lam Kinh trong dáng vẻ tôn nghiêm, hoành tráng. Đặc biệt, việc xây dựng Lam Kinh còn nhằm mục đích là tạo uy thế cho triều đình nhà Lê, cả về đối ngoại lẫn đối nội. Đồng thời, đó là một bước nhằm hiện thực hóa tư tưởng và khát vọng xây dựng Nhà nước Lê sơ hùng mạnh của Đức Thái Tổ Cao hoàng đế Lê Lợi.

Với nhiều tầng nghĩa sâu xa đó, Lam Kinh được xây dựng dựa theo hình thế núi sông tự nhiên và quan niệm phong thủy nghiêm ngặt. Theo nhà sử học Phan Huy Chú miêu tả: “Điện Lam Kinh đằng sau gối vào núi, trước mặt trông ra sông, bốn bên non xanh nước biếc, rừng rậm um tùm. Vĩnh Lăng của Lê Thái tổ, Thiệu Lăng của Lê Thái tông và lăng của các vua nhà Lê đều ở đấy cả. Lăng nào cũng có bia. Sau được lấy hồ Tây làm não, giống như hồ Kim Ngưu. Hồ rất rộng lớn, nước các ngả đều chảy cả vào đó. Có con sông phát nguyên từ hồ ấy, chạy vòng trước mặt, lòng sông có những viên đá nhỏ, tròn và nhẵn trông rất thích mắt nhưng không ai dám lấy trộm. Lại có lạch nước nhỏ chảy từ bên tay phải qua trước điện, ôm vòng lại như cánh cung. Trên lạch có cầu giống Bạch Kiều ở giảng đình điện Vạn Thọ Đông Kinh, đi qua cầu mới tới điện. Nền điện rất cao, hai bên mở rộng, dưới chân điện có làn nước phẳng, giống như trước điện nhà vua coi chầu. Ngoài cửa Nghi môn có hai con chó ngao bằng đá, tục truyền là rất thiêng. Điện làm ba ngôi liền nhau, kiểu chữ Công, mẫu mực theo đúng kiểu các miếu ở Kinh sư. Theo từng bậc mà lên, rồi từ đó trông xuống thì thấy núi khe hai bên Tả, Hữu, cái nọ, cái kia vòng quanh thật là một chỗ để xây dựng cơ nghiệp”.

Khởi nguồn là “kinh đô tưởng niệm”, nơi thực hành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên nhà Lê; song với vai trò lịch sử, cùng nhiều giá trị to lớn về mặt văn hóa - kiến trúc, nghệ thuật, thẩm mỹ, Lam Kinh ngày nay trở thành một quần thể di tích có tầm quan trọng đặc biệt và là di sản văn hóa quốc gia được bảo tồn, gìn giữ nghiêm ngặt. Đồng thời, là nơi lòng người hướng về với sự tôn kính, ngưỡng vọng và tri ân các bậc hiền nhân tiên tổ. Do vậy năm 2012, Lam Kinh đã được Thủ tướng Chính phủ ký quyết định công nhận là di tích quốc gia đặc biệt (tại Quyết định số 1419/QĐ-TTg ngày 27-9-2012). Tròn 10 năm được vinh danh, Lam Kinh đã và đang được Trung ương và tỉnh Thanh Hóa quan tâm đầu tư trùng tu, tôn tạo và khai thác, phát huy giá trị phục vụ phát triển du lịch.

 

LÊ DUNG

(Nguồn Báo Đồng Nai)

 

.
.
.