.
TẠP BÚT

Những tổ chim dồng dộc đã xa

Cập nhật: 19:58, 25/06/2021 (GMT+7)

Ngày nhỏ tôi ở quê ngoại, phía trước nhà tôi là một giồng cát, chu vi rộng bằng 2 công đất, cứ theo hai mùa mưa nắng mà mẹ tôi trồng hoa màu. Mùa nắng thì trồng dưa, mùa mưa thì trồng bí, xen kẽ vào mỗi thời vụ trồng thêm cà, đậu xanh, đậu phộng, bắp… nên giồng cát quanh năm phủ một màu xanh ngăn ngắt dưới nền trời cũng xanh thăm thẳm những đám mây màu trứng sáo xa ngút mắt như những cơn mơ thời tuổi nhỏ.

Bao quanh giồng cát ở 3 mặt là 3 hàng keo gai ken dày, cây keo gai lá nhỏ, xanh mướt chỉ có hai loài thích ăn, dưới đất là đàn dê luôn háu đói ăn tạp, trên không là bầy quýt tàu, một loại bọ cánh cứng to cỡ bọ rầy màu xanh rất đẹp đẻ trứng nhỏ xíu như trứng thằn lằn, nhiều màu mà trẻ con thích mê, thường bắt về nuôi trong hộp thuốc Tàu để… ngắm chơi. Những con quýt tàu thường đậu trên những tán keo gai ngủ ngày, lừ đừ, lười biếng cứ gặm lá keo gai non chứ không muốn bay nên trẻ con lấy cây thọc là rơi xuốn đất mà những con quýt tàu thích ngủ ngày vẫn chưa tỉnh ngủ.

Trong ký ức của tôi mùa keo gái chín cũng là mùa chim dồng dộc làm tổ. Những trái keo gai khi còn non thì màu xanh, đặc biệt khi chín thì… màu trắng sữa, vỏ nứt ra có thể nhìn thấy những “mắt” trái keo gai màu tím trắng ngon mắt bên trong, không chỉ có loài chim cưỡng bông thích ăn mà trẻ con cũng rất thích vì nó có mùi vị rất lạ, một loại trái cây hoang dại, rất đồng quê và ghi đậm vào hoài niệm một thời thơ ấu của bất kỳ ai luôn thổn thức với nỗi nhớ quê nhà.

Thủa ấy, tôi không nhớ chính xác bằng ngày tháng, chỉ khi một sáng thức đậy thấy giồng bắp của mẹ tôi  trái no tròn, ngậm những tua râu hung hung đỏ nhưng chưa tới lúc hạt dày, đang đợi ngày hái trái và thảm lúa trên cánh đồng trước mặt đang trĩu bông, ngả màu vàng ươm như nắng mai thì cũng là lúc trên hàng keo gai trĩu trái chín chi chít lũ chim dồng dộc đang về xây tổ, đẻ trứng.

Không hiểu sao tôi rất thích nhìn những đôi vợ chồng chim dồng dộc tha “nguyên vật liệu” xây dựng từ trong thiên nhiên về chăm chỉ đan cái tổ hình chiếc vớ to treo lơ lững trên những nhánh cây keo gai. Có lẽ trong họ hàng nhà chim không loài nào siêng năng, cần mẫn, chăm chỉ và kỳ công xây chiếc tổ đẹp lạ lùng như chim dồng dộc. Và cũng không loài chim nào như dồng dộc chọn lựa loại “nguyên vật liệu” xây dựng tổ “cực kỳ” thơm mùi thiên nhiên, cây cỏ từ khi còn tươi đến khi khô giòn thành chiếc tổ tuyệt đẹp.

Mỗi ngày từ sáng sớm đôi vợ chồng dồng dộc  khoác bộ cánh nâu, sọc đen trống mái phân biệt rất rõ bởi chim trống có cái đầu màu vàng nghệ (nên còn gọi là dồng dộc nghệ) bay đi bay về, miệng ngậm một sợi chỉ rất mảnh, đó là chỉ mà đôi vợ chồng chim dùng chiếc mỏ nhỏ xíu tướt trên những cọng lá tranh, lá sả, yếm bọc buồng dừa để về đan tổ. Bởi thế nên tổ chim dồng dộc ngoài sự kỳ công còn có mùi thơm đặc trưng của mùi lá sả, lá tranh mãi đến khi chúng ấp trứng nở con vẫn không bay thứ mùi đặc trưng đồng nội này.

Chiếc tổ của chim dồng dộc hình chiếc vớ, miệng tròn chúc xuống đất, đường kín miệng tổ chỉ cỡ cổ tay trẻ con nối với phần thân tổ phình ra giống cái bao tử (dạ dày) là nơi dùng ấp trứng lại nối với đoạn cuối của chiếc tổ tóp lại, toàn bộ độ dài chiếc tổ dồng dộc khoảng 3-4 tấc được treo lơ lửng trên chót nhánh cây keo gai mang đặc tính vùa cảnh giác, vừa phòng hộ đến độ gần như tuyệt đối an toàn để không có một “ địch thủ” nào vào được  bên trong chiếc tổ kiến tạo đơn giản mà rất hiểm hóc này để ăn trứng hay ăn chim con.

Tôi cho rằng chiếc tổ chim dồng dộc là một công trình kiến trúc độc đáo, vừa công phu, mà lại vừa… đơn giản khiến cho bàn tay con người, hoặc tay nghệ nhân tuyệt kỹ cũng khó mà bắt chước được. Thế nhưng trong thời gian ngắn những đôi chim dồng dộc chăm chỉ ấy đã hoàn thành những chiếc tổ màu xanh lá cỏ hình chiếc vớ dành cho chim mái ấy, treo lủng lẳng khắp hàng keo gai bên cạnh những chiếc tổ dành cho chim trống đứng bảo vệ tổ thời kỳ chim mái ấp trứng được đan kết đơn giãn hơn giống như nửa quả bóng cao su của trẻ con chơi úp lại có một sợi dây kéo ngang cho chim trống ngủ. Và rồi cũng trong chớp mắt khi lúa chín vàng đồng cũng là lúc tôi nghe thấy tiếng chim non kêu lít nhít đòi chim bố mẹ mớm mồi trên những chiếc tổ đã ngã màu vàng rơm, thôi thúc tôi kiếm cách trèo lên khám phá thế giới không gian đầy tiếng chim ấy.

Nhưng để thò tay vào được những tổ chim dồng dộc mát mịn da tay, thơm mùi hương ngai ngái của cỏ tranh hoang dại để khám phá  xem tổ chim có mấy trứng hoặc nở được bao nhiêu chim non, đã “ra ràng”, tập bay chưa, để bắt xuống nuôi thật không phải dễ dàng. Cây keo gai tất nhiên cành nhánh đầy gai nhọn không leo lên được, nếu leo lên cũng không thể bám cành đu ra tận tổ chim treo lắt lẻo giữa không gian. Lũ trẻ con chúng tôi rất sáng tạo, bắt hai cây thang tre chéo nhau, một đứa dứng vịn bên này tạo thế vững chắc, đứa bên kia leo từng bậc lên tới tổ chim dồng dộc.

Thường một tổ chim dồng dộc nở 3-4 con chim non, chim tập bay là bắt xuống nuôi được bằng cách nhai gạo sống mớm cho chim cho đến khi chúng mổ được gạo, thóc thì… thả ra cho chúng trở về với thiên nhiên cao rộng chứ chim dồng dộc chỉ biết kêu rít rít tối ngày mà không hót được. Người ta, đặc biệt là trẻ con chỉ nuôi chim sáo, chim cưỡng, chim nhồng để chúng nói, hoặc chích chòe, chào mào… để chúng hót chứ không ai tốn công sức để nuôi chim dồng dộc.

Và cũng kỳ lạ thay, hết mùa chim non này tới mùa chim non khác, những bầy chim dồng dộc đông đảo dần, rồi vào một hôm cánh đồng quê làng vừa xong vụ gặt bầy chim dồng dộc con theo cha mẹ chúng rời tổ bay khỏi những hàng keo gai, để lại những chiếc tổ hình “dạ dày”, hình “vớ” lắt lẻo, đong đưa, hoàn toàn trống vắng, lặng im trên những nhành keo gai trong gió lộng thổi suốt qua giồng bắp nhà tôi.

Không ai biết bầy chim dồng dộc bay về phương nào cho tới mùa lúa xây bông vàng rực năm sau chúng lại rủ nhau về kêu tíu tít, bận rộn đan những chiếc tổ mới bên cạnh những chiếc tổ cũ cái còn, cái mất vì bọn trẻ con chúng tôi thường thọc những tổ chim dồng dọc xuống, nhét một trái bưỡi non vào, cuộn tròn lại thành một quả banh rơm để chơi đá banh.

Đặc tính của loài chim dồng dộc không bao giờ sống trong tổ cũ mà phải xây chiếc tổ mới và, cũng chỉ trong chớp mắt trên những hàng keo gai trước nhà tôi lại lủng lẳng những tổ chim hình chiếc vớ và lại ríu rít tiếng chim non.

Nhưng đó là chuyện của ký ức, của thời thơ ấu. Sau này tôi về lại quê làng tìm đỏ mắt cũng không thấy một tổ chim dồng dộc của tuổi thơ.

TỪ KẾ TƯỜNG

 
.
.
.