Chị bị câm, theo như lời người ta kể thì lúc lên sáu, chị vẫn ríu rít nói cười. Rồi một ngày, trời mưa nặng hạt, sấm chớp giật đùng đùng. Ba chị kịp dắt con bò về chuồng nhưng bò vừa vô đến cổng, một tia chớp sáng rực, ông bị thiên lôi gọi tên. Chị chứng kiến, sợ hãi, mặt cắt không ra giọt máu nhưng không khóc. Rồi từ đó đến nay, chị không một lời.
Minh họa: MINH SƠN |
Trớ trêu thay! Người biết nói rành rõi lại không thích hoặc không thể giao tiếp với người câm. Dù chị có được học ngôn ngữ của người câm bao giờ, cách nói của chị cũng chỉ là bản năng. Rồi xung quanh chị, cái xóm núi nghèo nàn lạc hậu, người ta càng lạ với ngôn ngữ cử chỉ. Khổ nỗi, như bị trời đày, chị lại thích nói. Người ta khó lòng đứng lại trò chuyện với chị dăm phút, cuộc sống gấp gáp, cái ăn cái mặc làm người ta hối hả, tất bật. Chị vẫn không nản, vẫn kiên trì muốn “nói chuyện”, hầu như chị độc thoại, gặp ai chị cũng chỉ chỏ, ra hiệu không ngừng, miệng ứ ư liên tục. Ai nhìn chị cũng thương, những người vô tâm hơn cũng chỉ biết cười thầm. Có người thấy bất nhẫn quá thì cũng nán lại vài giây, giả bộ dùng cử chỉ ngôn ngữ, cũng ứ ư rồi khua chân múa tay. Chị cười vì được chia sẻ.
Người lớn thương cảnh ngộ của chị, dù không rảnh trò chuyện nhưng họ nhìn bằng ánh mắt thông cảm, đôi khi cả thương hại. Trẻ con trong xóm thì nghịch ranh. Chị vô tình trở thành đề tài của những trò nghịch như quỷ của chúng. Mỗi lần thấy chị, chúng chạy ào lại, tay múa lia lịa, rồi mấy đứa đứng sau lưng bụm miệng cười. Nếu cãi nhau, cãi không lại, tức quá thì rủa bạn mình câm như chị cho người khác nhờ.
Đã qua tuổi 25 nhưng chị vẫn một mình. Nói cho cùng, cuộc sống đầy rẫy những cô gái đẹp, có tri thức, ăn nói có duyên, ai lại đi lấy chị, một người đàn bà nhan sắc tầm tầm, lại câm.
Chị không có bạn, sống âm thầm bằng nghề đan lát. Kể cũng lạ, cái tật đi trước cái tài theo sau. Chị có đôi tay tài hoa, chị đan rất khéo và cũng giàu óc sáng tạo. Những món đồ thủ công của chị vừa đẹp vừa lạ, giá lại mềm. Tụi nhỏ hay vô cái cửa hàng mà mẹ chị làm cho để mua đồ tặng bạn bè. Chị cũng kiếm được đồng vào đồng ra.
Mẹ chị già lắm rồi, cũng không thể sống đời với chị mãi được. Rồi một ngày, bà qua đời. Chị lại côi cút, nhìn chị cũng không đoán được đang vui buồn hay hờn giận gì. Khuôn mặt chị, sức biểu cảm là trung dung, khó nắm bắt.
Anh hàng xóm bị bệnh, bệnh triền miên, dai dẳng. Lúc trẻ trai, khi còn sung mãn, anh làm lở núi lở non, chăm lo cho gia đình đầy đủ. Bây giờ tự dưng cơ thể trở chứng, bệnh hoạn hoài. Anh là trụ cột gia đình, giờ lăn đùng ra bệnh, tình cảnh rõ cơ cực. Các con nheo nhóc, chúng cứ như cỏ dại ven rừng, cằn cỗi nhưng vẫn sống. Đã vậy, lúc còn khỏe, anh không cho vợ đụng tay đụng chân, việc đồng áng anh lo tất, vợ chỉ cơm nước, giặt giũ. Bây giờ ra nông nỗi này, cái bệnh, cái nghèo đeo bám. Quả thật “họa vô đơn chí”, mấy hôm nay tự dưng chị vợ vắng nhà, đứa con nhỏ theo mẹ, đứa lớn ngồi cửa ngóng, anh nằm đợi, đợi mãi rồi không thấy vợ về.
Hai cha con, nhà không có đàn bà, rơi vào cảnh bi đát. Anh bệnh tật không ai chăm sóc, cơm cháo, giặt giũ, thuốc thang… Đứa con còn nhỏ, tự lo cho bản thân là giỏi rồi, cơm nước bữa khê bữa khét. Tuy câm nhưng chị rất giàu tình cảm. Chị thấy tội nghiệp, qua lại chăm lo chu đáo - cứ như hai cha con anh với chị là chỗ thân tình. “Giao tiếp” riết, thằng nhỏ bắt đầu hiểu được “ngôn ngữ” của chị. Và chị thích nghi, hòa hợp được với họ, những người biết nói.
Chị vợ bặt vô âm tín cả năm. Có người xa quê tình cờ gặp, nghe phong thanh chị ta đã theo một người đàn ông khá giả, sang trọng và được đổi đời. Anh không buồn, không oán giận, chỉ bảo hết duyên. Từ đó, anh với chị càng thân tình hơn, hai mảnh đời rách rưới đùm bọc, nương tựa lẫn nhau mà sống. Vậy là chị có chồng.
Cuộc sống của đôi vợ chồng êm ấm. Không phải vì chị câm nên không mồm mép, không thể càu nhàu như người vợ trước mà bởi lẽ chị rất ngoan hiền. Chị không nói được nhưng tâm hồn “biết nói”, hiền lành và thương chồng, yêu con. Chị chăm lo tận tâm, anh dần bình phục như có phép màu. Cái tiệm hớt tóc trước cửa nhà khách ra vô đều đặn, thêm mấy sào ruộng đưa người ta thuê, nói chung, không dư giả nhưng đủ rau cháo qua ngày. À, trước đó, khi chính thức về nhà anh, chị hoàn toàn tin tưởng nên không ngần ngại bán đi cửa hàng làm đồ thủ công. Chị bây giờ chỉ làm bà nội trợ. Cũng buồn đôi tay nhưng chị hạnh phúc. Sống đạm bạc nhưng êm đềm, nghèo tiền bạc nhưng tình thương dư giả.
Rồi một ngày, anh lại ngã bệnh. Càng ngày càng tiều tụy, gầy gò đến độ da bọc xương, da dẻ vàng chạch. Chủ quan vì nghĩ bệnh cũ tái phát nên anh cứ lần lựa. Chị lo lắng khi thấy sức khỏe chồng sa sút, muốn khuyên nhủ anh nhưng quả là quá khó. Rồi một ngày, khi bệnh càng trầm kha thì đi viện. Bác sĩ bảo ung thư gan giai đoạn cuối, đã di căn. Và anh đi. Anh bỏ chị một mình.
Anh mất, chị đau đớn, còn gì đau khổ bằng muốn khóc mà không khóc được. Khóc không ra tiếng, cứ nấc lên quằn quại, ruột gan càng đau đớn. Chị lủi thủi ra vào trong ngôi nhà quạnh vắng. Cuộc sống từng ngày trôi qua trong im lặng, trống trơn.
Người vợ năm xưa bỗng dưng xuất hiện. Chị ta ra mồ thắp cho anh nén nhang và về đuổi người đàn bà câm ra khỏi nhà. Bị câm nhưng chị vẫn hiểu khi người ta giao tiếp bằng tay chân. Thấy người vợ trước hung dữ nhặt đồ mình vứt hết ra ngoài đường là chị hiểu, mình không có quyền gì để ở trong ngôi nhà này. Ngôi nhà mà chị là “người dưng” còn người đàn bà đang sục sạo và quăng đồ đạc chị ra đường kia mới là vợ trên giấy tờ.
Chị lặng lẽ ra đi. Theo sự mách bảo của một số người trong thôn, chị theo xe vào thành phố bán vé số, lay lắt qua ngày. Bán vé số là một công việc không bỏ vốn nhưng vẫn có lời, người bán chỉ cần bỏ sức và dẻo mồm mời khách. Oái ăm thay, chị lại không biết nói. Gặp ai chị cũng giơ tập vé số ra, ánh mắt thiết tha. Một số người thấy tội nghiệp mua cho vài tờ, chị mừng húm. Gật đầu cảm tạ lia lịa.
Hôm đó vô quán nhậu, lũ trẻ choai choai tụm năm tụm bảy, đầu xanh, đầu bạch kim, hai lai… Chị giơ tập vé mời, một cậu trong bàn bất ngờ giựt hết cả tập, chạy vù khỏi quán. Chị chạy theo cậu nhỏ, miệng muốn la kêu mọi người chặn đòi tập vé số giúp nhưng không được. Chị kiên trì chạy theo cậu nhỏ một quãng. Bất lực, chị ngồi bệt xuống đường, buồn bã.
Một người đàn ông đứng trước mặt chị. Người này to cao, vạm vỡ, anh không đứng một mình mà tay dắt cậu bé lúc nãy đến xin lỗi chị. Chị vui mừng chụp tập vé số, nụ cười đang nở bỗng tắt ngấm. Chị buồn hiu hắt, đã hết giờ để trả lại vé cho đại lí rồi. Người đàn ông như hiểu được cảnh ngộ của chị, anh ta đưa tiền, mua hết tập vé số, rồi anh ta bỏ ngược lại tập vé số vào chiếc túi của chị và nhanh chân sải bước...
Chị về đại lý, mọi người thấy chị xác xơ nhưng vẻ mặt lộ rõ niềm vui. Mỗi người một dự đoán, chị biết điều thắc mắc đó nhưng tiếc là không thể chia sẻ được câu chuyện buổi chiều cho mọi người. Và tối đó, chị dù không trúng tờ số nào nhưng nhớ tới cái cách người đàn ông lạ tặng chị xấp vé, chị ngồi cười đỏ mặt ...
Truyện ngắn của NGUYỄN THỊ BÍCH NHÀN