Tháng 7 có một ngày đặc biệt, ngày mà cả nước tri ân sự hy sinh của bao anh hùng liệt sĩ, thương, bệnh binh và các gia đình có công cách mạng. Con số 7 như bảy sắc cầu vòng bắc qua cơn mưa mang hào quang lịch sử một thời. Con số 7 như bảy âm độ trong bản nhạc với những cung trầm ngân vọng da diết. Là con số 7 của nhà Phật với bao nghĩa cử tôn nghiêm như bảy bông sen hồng tinh khiết dâng lên đài hương…
Những ngày này, ta gặp lại các đoàn cựu chiến binh về thăm chiến trường xưa. Áo các anh đã bạc, màu da còn tái mét cơn sốt rừng, những vết thương trên mình khi trái gió trở trời đau nhức, chiếc ba lô còn lỗ chỗ viên đạn. Chiến tranh kết thúc lâu rồi vẫn chưa thôi cơn báo động. Những cơn báo động của cuộc sống đời thường còn bao gian khó. Biên cương, hải đảo nòng súng vẫn còn thao thức để giữ bình yên cho cuộc sống. Và trong mỗi người lính vẫn đang gồng mình “kéo pháo” qua dốc núi lưng đèo, qua những cám dỗ để không lăn xuống vực thẳm sâu như ngày trước người lính Điện Biên đã từng kéo pháo với nhịp “Hò dô ta nào…”. Điệu hò ấy vẫn còn ngân vang, vọng mãi với nhịp bước quân hành. Và những người lính, dù đã nằm xuống vẫn trong tư thế tiến công, vẫn trong đội hình đánh giặc.
Thật cảm động biết bao khi ta bắt gặp một nhà thơ chiến sĩ đứng trước nghĩa trang với hàng ngàn ngôi mộ mà trong tay anh chỉ có một bó nhang. Và một ứng xử rất nhân văn lay động thổn thức bao trái tim con người: “Xin được thắp hương nơi đầu gió/Hương khói đừng quên nấm mộ nào” (Thăm mộ chiều cuối năm - Nguyễn Thái Sơn). Hay hình ảnh người vợ đến thăm chồng với một vòng hoa mang theo mà khu rừng chỉ có hai ngôi mộ. Và chị đã dâng vòng hoa lên mộ người động đội của chồng mình với một cử chỉ thân thương tha thiết: “Xin cho chị đặt hoa bên mộ đó/Cả cánh rừng chỉ có hai ngôi mộ/Viếng mộ anh có chị đến đây rồi!” (Viếng chồng - Trần Ninh Hồ).
Còn đó những ngôi “Mộ gió”: “Chạm vào gió như chạm vào da thịt/Chạm vào buốt nhói Hoàng Sa” (Mộ gió - Trịnh Công Lộc). Nỗi đau lớn nhất là nỗi đau người mẹ. Mẹ đã từng mang thai chín tháng mười ngày, đã từng bế bồng bú mớm dõi theo từng bước đi chập chững ban đầu với bời bời biết bao hy vọng. Các con là điểm tựa của mẹ khi về già, lưng đã còng, tóc đã bạc. Bông lúa chín nặng trĩu là khi lúa uốn cong mình cúi xuống. Nhưng chính mẹ lại là “bệ phóng” để tiễn con đi với bao sức mạnh tiềm tàng từ cội nguồn truyền thống. Mẹ là hình ảnh: “Nắng đã chiều vẫn muốn hắt tia xa” (Mẹ - Phạm Ngọc Cảnh). Dáng hình đất nước Việt Nam như dáng hình của mẹ, mềm mại như tà áo dài mà vững chãi như con đê đầu làng.
Tiếng vọng âm tình tháng Bảy từ những cánh rừng Trường Sơn chập chờn bướm trắng, nắng vàng với bao mộng mị; từ những quả núi khét cháy đá vôi ở mặt trận Vị Xuyên; từ những bờ tường gạch đỏ mà cỏ xanh vẫn len lỏi mọc lên nơi kẽ đá của thành cổ Quảng Trị 81 ngày máu lửa; từ màu tím hoa sim và rặng thông xanh ngời ngời chớp bạc của Ngã ba Đồng Lộc, Truông Bồn; Hang 8 cô. Bất tử với những bè hoa kết nối, bao sắc màu, sắc hương trong những vườn quê nhà thả xuống dòng Thạch Hãn “Đò lên Thạch Hãn xin chèo nhẹ/Đáy sống còn đó bạn tôi nằm” (Lê Bá Dương).
Tháng Bảy là tháng thiêng liêng, tháng cội nguồn nghĩa tình dân tộc. “Đền ơn đáp nghĩa” không chỉ là một hoạt động thường niên mà đó còn là nghĩa cử cao đẹp của người đang sống với người đã mất. Mà mất sao được hình ảnh những người con gái, con trai: “Đẹp hơn hoa hồng, cứng hơn sắt thép/Xa nhau không hề rơi nước mắt/Nước mắt chỉ để dành riêng cho ngày gặp mặt”. Nhà thơ Nam Hà đã viết như thế trong bài thơ nổi tiếng: “Chúng con chiến đấu cho người sống mãi Việt Nam ơi”. Một Việt Nam bốn ngàn năm qua bao cuộc trường chinh đánh giặc vẫn giữ trọn bờ cõi núi sông hồn thiêng đất Việt. Một Việt Nam qua bao cuộc đô hộ vẫn giữ vẹn nguyên tiếng Việt, văn hóa Việt, tấm lòng nghĩa tình Việt. Không thể mất đi được những ký ức lịch sử, ký ức của con người. Những địa danh thân thương gắn liền với những chiến công, những điệu dân ca gắn liền với bao địa hình, địa lý phong thổ.
Tháng Bảy nghĩa tình thương nhớ xin được được nghiêng mình trước các bia mộ có tuổi có tên và cả chưa có tên có tuổi. Xin đừng gọi là “vô danh” bởi chính sự hy sinh lặng lẽ ấy đã vinh danh đất nước. Như nhà thơ Chế Lan Viên đã viết: “Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt/Như mẹ cha ta như vợ, như chồng/Ôi Tổ quốc nếu cần ta chết/Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi, dòng sông...”.
NGUYỄN NGỌC PHÚ