Cuối tháng 5 vừa qua, một du khách leo rào, cầm tay bẻ gãy bệ tì tay ngai vàng 143 năm tuổi triều Nguyễn ngay giữa điện Thái Hòa (Đại Nội Huế). Sự việc không chỉ cho thấy giá trị vật thể bị tổn hại mà còn phơi bày lỗ hổng trong công tác quản lý, bảo vệ di sản.
Ngai vàng được đặt giữa điện, để du khách dễ hình dung nghi lễ triều Nguyễn nên không lắp đặt tủ kính hay thiết kế hàng rào kiên cố. Tuy nhiên, các biện pháp an toàn quan trọng khác lại thiếu thốn. Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế chỉ có 11 nhân viên túc trực, riêng điện Thái Hòa chỉ 2 người giám sát. Nhân viên bảo vệ không được trang bị công cụ hỗ trợ nên chỉ có thể nhắc nhở khi có tình huống xảy ra. Hệ thống camera giám sát cũng mới chỉ có các tính năng cơ bản, chưa đủ tính năng hiện đại để bảo vệ di sản.
Sự cố ở Huế là lời cảnh tỉnh cho công tác bảo vệ di sản và bảo vật quốc gia. Luật Di sản Văn hóa 2024 đã xác định trách nhiệm cơ quan quản lý và chế tài xử lý vi phạm rõ ràng, nhưng hướng dẫn thi hành vẫn chung chung, chưa quy định chi tiết tiêu chuẩn bảo vệ hoặc trang thiết bị an ninh cho bảo vật quốc gia. Kinh phí cho công nghệ bảo tồn còn eo hẹp, chủ yếu dành cho tu bổ, ít dành cho đầu tư hệ thống cảnh báo sớm và bảo vệ chủ động.
Tại Bà Rịa-Vũng Tàu, địa phương quản lý 141 di tích ở nhiều cấp độ, gồm 2 di tích cấp quốc gia đặc biệt, 28 di tích cấp quốc gia, 18 di tích cấp tỉnh và 3 bảo vật quốc gia trưng bày tại Bảo tàng tỉnh. Do đó, công tác bảo tồn và bảo vệ các di sản, bảo vật quốc gia cần được đặt lên hàng đầu.
Trước bài học từ Huế, cần ngay lập tức rà soát, đánh giá rủi ro tại từng điểm di tích, đặc biệt đối với hiện vật gốc và bảo vật quốc gia. Đầu tư công nghệ bảo vệ không chỉ dừng ở camera, mà phải bao gồm hàng rào an ninh, cảm biến chuyển động và hệ thống cảnh báo di động. Ở một số bảo tàng thế giới, người ta vẽ đường kẻ dưới nền nhà để du khách biết không bước qua vạch đó, nếu lỡ bước vào, nhân viên bảo vệ sẽ nhắc nhở hoặc cảm biến sẽ phát tín hiệu báo động. Hoặc có thể thiết lập hệ thống cảm biến trong khung bảo vệ, khi khách tham quan sờ chạm vào, thiết bị sẽ báo động.
Bộ VH-TT-DL cần ban hành tiêu chuẩn kỹ thuật bảo vệ di tích cấp quốc gia, trong đó nêu rõ mức đầu tư tối thiểu cho công nghệ cảnh báo sớm và thiết bị hỗ trợ lực lượng bảo vệ. Địa phương không thể chờ ngân sách Trung ương mà phải chủ động dành ngân sách tương xứng với giá trị di sản của mình.
Bên cạnh công nghệ, việc xử lý tình huống ngay tại hiện trường cũng rất quan trọng. Cần chuyên nghiệp hóa đội ngũ an ninh bảo vệ, trẻ khỏe, được đào tạo xử lý tình huống và trang bị công cụ hỗ trợ, đặc biệt ở những nơi có hiện vật quan trọng như bảo vật quốc gia. Kịch bản phối hợp với công an các cấp và đường dây nóng cũng phải được rà soát, sẵn sàng khởi động tức thì khi có sự cố.
Một giải pháp quan trọng khác để nâng cao công tác bảo tồn di sản là kết nối với người dân địa phương, như cách người Nhật đã làm. Người giữ đình, đền ở Nhật không phải nhân viên Nhà nước mà là dân cư địa phương, được tổ chức thành hội bảo tồn và được tập huấn, hỗ trợ thù lao. Tại các cố đô ở Nhật như Kyoto hay Nara, người dân sống trong khu cổ tham gia du lịch, tổ chức workshop thủ công truyền thống.
Việt Nam cần mô hình tương tự: chuyển giao một phần quyền chăm sóc, kể chuyện và kết nối di sản cho cộng đồng sở tại. Điều này giúp người dân nhìn thấy chính mình trong câu chuyện di sản. Họ có thể dẫn tour ngắn, hướng dẫn du khách và được trả công chính đáng.
Bảo vệ di sản không chỉ là công việc của cơ quan quản lý mà còn cần sự tham gia của cộng đồng và đầu tư công nghệ kịp thời. Đừng để đến khi di sản bị tổn hại mới hành động, hãy chủ động bảo vệ để di sản mãi trường tồn.
NGUYỄN THI