Bài toán chọn trường, chọn nghề

Thứ Năm, 05/06/2025, 18:50 [GMT+7]
In bài này
.

Tầm này năm ngoái, cô tôi đến nhà nhờ xin cho con trai cô hoãn nghĩa vụ quân sự vì em mới tốt nghiệp đại học và vừa xin được việc làm ở một doanh nghiệp tại TP.Hồ Chí Minh. Gia cảnh khó khăn, cô muốn con đi làm để phụ nuôi đứa em đang học cấp 2. Em bị cận thị nặng, khả năng trúng tuyển nghĩa vụ cũng không cao, nên tôi đồng ý để cô yên tâm. Khi có kết quả em không trúng tuyển, cô mừng rỡ.

Cách đây mấy ngày, cô bất ngờ gọi điện hỏi tôi xem có cách nào xin cho em… “đi lính” vào năm tới hay không. Lý do, em học quản trị kinh doanh nhưng làm trái ngành, lương bổng chỉ đủ chi tiêu tằn tiện và thuê phòng trọ. Chán nản, em quyết định nghỉ việc, về Vũng Tàu ở với mẹ.

Từ trường hợp của em, tôi nhớ đến mấy người em họ và cháu khác cũng trong tình trạng tương tự. Có người tốt nghiệp đại học danh tiếng nhưng lại trở thành “cò” nhà đất, có người thì mở quán giải khát, người đi dạy tiếng Anh hợp đồng cho trường tư, người thì lấy chồng rồi ở nhà… trông con và bán vé khu vui chơi qua mạng. Điểm chung là tất cả họ đều làm công việc không liên quan gì tới tấm bằng đại học!

Kể câu chuyện trên để nhắc đến vấn đề không mới, nhưng mỗi mùa tuyển sinh vẫn nóng hổi nỗi trăn trở của hàng trăm ngàn học sinh và phụ huynh: Học đại học hay học nghề? Chọn ngành theo đam mê, năng lực hay theo... “trào lưu”?

Hiện nay, hệ thống giáo dục ngày càng mở rộng. Học sinh chỉ cần tốt nghiệp THPT là có thể vào đại học. Nhiều em học như “quán tính”, hết lớp 12 thì đi học tiếp, mà không có sự định hướng rõ ràng. Tâm lý “chuộng bằng đại học” vẫn chiếm ưu thế. Trong khi đó, thị trường lao động lại cho thấy thực tế khác: thừa thầy, thiếu thợ. Theo một báo cáo, tại TP.Hồ Chí Minh, năm 2022 có gần 150 ngàn lao động mất việc được hưởng trợ cấp thất nghiệp thì có đến 83 ngàn lao động phổ thông và gần 46 ngàn lao động có trình độ đại học trở lên. Như vậy, 88% số lao động mất việc là người không có tay nghề và cử nhân đại học.

Nguyên nhân cũng bởi nhiều sinh viên không coi trọng việc học, thiếu kỹ năng mềm, kỹ năng nghề nghiệp, thiếu khả năng tự lập khi xa nhà. Khi ra trường, họ không thể áp dụng kiến thức vào thực tiễn, không cạnh tranh được, buộc phải chấp nhận làm trái ngành với mức thu nhập không như mong đợi. Trong thời đại công nghệ phát triển nhanh chóng, trí tuệ nhân tạo ngày càng được ứng dụng rộng rãi, nguy cơ thất nghiệp càng cao nếu người lao động không thích ứng, không ngừng học tập, đào tạo lại, dù người đó có bằng cấp đầy đủ hay đang là nhân sự cấp cao của doanh nghiệp.

Trong khi đó, hệ thống giáo dục nghề nghiệp ngày càng cải thiện. Nhiều trường nghề đã đầu tư thiết bị thực hành hiện đại, đào tạo gắn với nhu cầu doanh nghiệp. Sinh viên học nghề được thực tập, làm việc có lương tại doanh nghiệp và dễ được tuyển dụng chính thức sau khi tốt nghiệp. Một số trường có thương hiệu, sinh viên tốt nghiệp còn được “săn đón” với mức đãi ngộ tốt.

Bên cạnh đó, du học nghề cũng là xu hướng được nhiều học sinh lựa chọn. Tại Đức, học viên không phải đóng học phí, còn được trả lương thực tập đủ để trang trải sinh hoạt. Sau khi tốt nghiệp, sinh viên nghề có thu nhập ổn định và có cơ hội phát triển bản thân. Chi phí ban đầu (học tiếng, thủ tục, môi giới…) tương đương đại học, nhưng về tổng thể, đây là khoản đầu tư xứng đáng so với việc học đại học trong nước rồi thất nghiệp hoặc làm việc trái ngành.

Dù học đại học hay học nghề, ngoài nghiên cứu chuyên sâu kiến thức chuyên môn, sinh viên cần phải tự trang bị kiến thức, kỹ năng mềm, kỹ năng số và tư duy học tập suốt đời. Quá trình học tập cần tích cực tham gia các hoạt động cộng đồng để tích lũy kinh nghiệm, xây dựng mối quan hệ xã hội, để tự tin khi bước vào thị trường lao động với công việc đúng chuyên môn, thu nhập hấp dẫn!

Tấm bằng đại học hay trường nghề không phải là đích đến, mà mới là khởi đầu của hành trình nghề nghiệp.

NGUYỄN ĐỨC

 

 

 
;
.