Những thay đổi địa chính trị quốc tế sau một năm xung đột Nga – Ukraine

Thứ Hai, 20/02/2023, 21:11 [GMT+7]
In bài này
.

Xung đột Nga – Ukraine chuẩn bị kéo dài sang năm thứ 2. Sau đây là một số thay đổi địa chính trị thế giới sau khi cuộc xung đột này nổ ra.

Xung đột ở Ukraine đã tác động lớn đến cục diện địa chính trị trên thế giới.
Xung đột ở Ukraine đã tác động lớn đến cục diện địa chính trị trên thế giới.

Thế giới đa cực hỗn loạn

Cuộc xung đột ở Ukraine đã đảo lộn trật tự thế giới, làm gia tăng căng thẳng và đối đầu, đồng thời thúc đẩy xu hướng toàn cầu hiện nay là các quốc gia hình thành các khối lấy Mỹ và Trung Quốc làm trung tâm.

“Chúng ta đã chuyển sang một thế giới đa cực hỗn loạn, nơi mọi thứ đều là vũ khí: năng lượng, dữ liệu, cơ sở hạ tầng, di cư. Địa chính trị là từ quan trọng, mọi thứ đều là địa chính trị”, đại diện cấp cao về chính sách an ninh và đối ngoại Liên minh châu Âu (EU) Josep Borrell cho biết.

Trung Á, vùng Kavkaz, Balkan, châu Phi và châu Á - Thái Bình Dương là nơi diễn ra cuộc cạnh tranh giành ảnh hưởng giữa các cường quốc như Mỹ, Trung Quốc, EU, Nga và Thổ Nhĩ Kỳ - cho dù thông qua tài trợ cho các dự án cơ sở hạ tầng hay các thỏa thuận nổi bật về hợp tác thương mại, quân sự cũng như ngoại giao.

Cuộc xung đột ở Ukraine còn làm rung chuyển mọi thứ, dẫn đến sự suy yếu về ảnh hưởng của Nga đối với các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ ở Trung Á và mở ra một vai trò trung gian hòa giải mới cho Thổ Nhĩ Kỳ.

Pierre Razoux, người đứng đầu tổ chức tư vấn FMES có trụ sở tại Pháp nhận định: “Một điều không thể tránh khỏi là xung đột sẽ khiến Nga và châu Âu suy yếu, trong khi hai bên được lợi lớn từ tình huống này sẽ là Mỹ và Trung Quốc”.

Mối quan hệ Nga – Trung Quốc

Trung Quốc đã phải xem xét cuộc xung đột liên quan đến mục tiêu chiến lược dài hạn là trở thành cường quốc hàng đầu thế giới vào năm 2049. Mặc dù Bắc Kinh ủng hộ Moskva, nhưng họ đã tránh những động thái có thể khiến phương Tây xa lánh.

Alice Ekman, một nhà phân tích châu Á tại Viện Nghiên cứu An ninh EU, cho biết: “Trung Quốc không từ bỏ mà đang củng cố mối quan hệ gần gũi hơn với Nga. Trung Quốc không cung cấp mức viện trợ như Mỹ đang dành cho Ukraine, nhưng thực tế là các mối quan hệ kinh tế giữa Moskva và Bắc Kinh đã được củng cố”.

Trong báo cáo thường niên được công bố vào tháng này, Cơ quan tình báo của Estonia đánh giá rằng “còn quá sớm để coi sự hỗ trợ hạn chế của Bắc Kinh đối với chiến dịch quân sự của Moskva là một dấu hiệu xa rời Nga từ Trung Quốc”.

Về phần mình, chuyên gia Razoux cho biết: “Điện Kremlin đang đặt cược vào việc đa dạng hóa các mối quan hệ địa chính trị, kinh tế và chiến lược với Thổ Nhĩ Kỳ, Trung Đông, Iran và châu Phi để hạn chế sự phụ thuộc vào Trung Quốc. Kho vũ khí hạt nhân khổng lồ của Nga - lớn hơn nhiều so với Trung Quốc - cũng giúp Moskva không hoàn toàn phụ thuộc vào Bắc Kinh”.

Vai trò của EU

Đối với EU, cuộc xung đột vừa là cơ hội để cho thấy họ có thể đóng vai trò là một bên quan trọng, vừa có nguy cơ khi một lần nữa trở thành bên thứ yếu trước Washington.

Châu Âu đã thể hiện khả năng phục hồi, khả năng phản ứng rất nhanh ngay từ khi bắt đầu xung đột, với sự hỗ trợ quân sự, viện trợ cho người sơ tán/tị nạn, giảm sự phụ thuộc năng lượng vào Nga. EU “đã đáp ứng các nhu cầu trước mắt", nhưng để chuẩn bị cho tương lai và vị trí của mình trên bàn cờ toàn cầu thì "còn nhiều việc phải làm”, một quan chức EU cho biết.

Nhưng Agathe Demarais, một nhà kinh tế và chuyên gia trừng phạt lại đặt nghi vấn: “Rõ ràng có hai khối, một Mỹ, một Trung Quốc cùng với các đồng minh của họ và Nga. EU sẽ trở thành khối thứ ba hay không, hay họ sẽ liên kết với Mỹ?”.

Chuyên gia Razoux thì cho rằng hiện Brussels đang thống nhất với Washington trong việc hỗ trợ Kiev. Mặc dù các nhà lãnh đạo châu Âu muốn “củng cố mối quan hệ với Mỹ, nhưng cũng nhận ra rằng họ có thể bị bỏ rơi trong một hoặc hai nhiệm kỳ chính trị” nếu một ứng cử viên theo chủ nghĩa cô lập trở thành lãnh đạo Nhà Trắng, chẳng hạn như thời Tổng thống Donald Trump.

Trong khi ngày càng nhiều quốc gia thành viên EU theo chủ nghĩa xuyên Đại Tây Dương không đặt tương lai bên ngoài chiếc "ô an ninh" của Mỹ và NATO, họ cũng đang tìm cách giảm bớt sự phụ thuộc chiến lược vào nhiên liệu hóa thạch của Nga, hiện phần lớn đã bị cắt đứt. Một tuyên bố tại hội nghị thượng đỉnh ở Versailles (Pháp) vào tháng 3 năm ngoái đã liệt kê các lĩnh vực như nguyên liệu thô chính, chất bán dẫn và sản phẩm thực phẩm là ưu tiên hàng đầu trong quá trình này.

Bruno Tertrais thuộc Tổ chức Nghiên cứu Chiến lược (FRS) có trụ sở tại Pháp nhận định, người châu Âu đang mắc chứng “trì hoãn chiến lược”, từ chối hành động cho đến khi không còn lựa chọn nào khác. Tuy nhiên, EU sẽ tìm cách “giành lấy một ghế trong bất kỳ cuộc đàm phán nào nhằm chấm dứt xung đột ở Ukraine”.

Về phần mình, Tổng thống Pháp Emmanuel Macron nói với báo Le Monde vào tháng 12 năm ngoái: “Tôi không muốn chỉ có Trung Quốc hoặc Thổ Nhĩ Kỳ đàm phán về những gì xảy ra tiếp theo (ở Ukraine)”.

Mỹ xoay trục sang châu Á

Năm 2009, Tổng thống Mỹ khi đó là Barack Obama đã dự đoán rằng “mối quan hệ giữa Washington và Bắc Kinh sẽ định hình thế kỷ 21”, báo trước sự xoay trục của Mỹ từ thế giới Đại Tây Dương sang Thái Bình Dương.

Tuy nhiên, cuộc xung đột ở Ukraine của Nga cho thấy rằng việc rút lui khỏi châu Âu có thể không dễ dàng như vậy đối với Tổng thống Mỹ đương nhiệm Joe Biden. “Nga đang kìm hãm sự chuyển dịch của Mỹ nhằm vào Trung Quốc. Mỹ phải tương đối nhanh chóng giải quyết vấn đề châu Âu này”, Thiếu tướng quân đội Pháp Bertrand Toujouse nói.

Nhà nghiên cứu Giovanna De Maio tại Đại học Washington cũng lưu ý ông Biden đang phải đối mặt với "một hành động cân bằng", nhấn mạnh "đã xuất hiện những lời kêu gọi ngày càng tăng về việc giải quyết xung đột càng sớm càng tốt" từ các chính trị gia Mỹ, cũng như sự phản đối của đảng Cộng hòa về việc tăng cường viện trợ vũ khí cho Ukraine.

Đòn giáng vào toàn cầu hóa

Cùng với việc cung cấp vũ khí cho Kiev, các nước phương Tây đã tìm cách “bóp nghẹt” nền kinh tế Nga bằng các biện pháp trừng phạt khắc nghiệt. Các biện pháp hạn chế đang gây ảnh hưởng đến hệ thống thương mại tự do toàn cầu vốn được thiết lập sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc.

“Các biện pháp trừng phạt đã chiếm ưu thế so với ngoại giao cùng những tuyên bố tiêu cực và các hoạt động quân sự nguy hiểm”, chuyên gia Demarais nêu quan điểm.

Trong lĩnh vực năng lượng, nơi Nga là một nhà cung cấp hàng đầu thế giới, các lệnh trừng phạt của G7 và EU, đặc biệt là việc áp mức trần giá dầu xuất khẩu đã “phong tỏa thị trường toàn cầu” đối với nhiên liệu hóa thạch của Moskva, Giám đốc điều hành Totalenergies, Patrick Pouyanne nói với AFP.

Rõ ràng, các cường quốc lớn đang phá bỏ các nguyên tắc thương mại tự do từng được kỳ vọng, chẳng hạn như việc Mỹ hạn chế bán một số loại chip máy tính cho Trung Quốc, hay việc Ấn Độ đình chỉ xuất khẩu lúa mì.

Tất cả những tác động này cùng với những hậu quả do đại dịch COVID-19 đã giáng một đòn mạnh vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Bà Demarais nói: “Xu hướng thế giới bị chia rẽ đã có từ trước, nhưng gần đây cú sốc kép, đầu tiên là đại dịch COVID-19, sau đó là xung đột Nga - Ukraine, đã đẩy nhanh quá trình này”.

CÔNG THUẬN

Khủng hoảng chi phí sinh hoạt

Xung đột đã gây ra những tác động dây chuyền đối với chi phí thực phẩm, năng lượng và môi trường sống (nhà ở) - ba trong số những nhu cầu cơ bản nhất của nhân loại - từ các nước đang phát triển ở châu Phi đến châu Âu giàu có.

“Một cuộc khủng hoảng chi phí sinh hoạt toàn cầu đã xuất hiện”, Diễn đàn Kinh tế Thế giới cho biết trong Báo cáo Rủi ro Toàn cầu thường niêm năm 2023.

Mặc dù một số chính phủ đã tìm cách ngăn chặn tác động, nhưng “năm 2022 đã chứng kiến một làn sóng phản đối chưa từng có về khả năng chi trả và khả năng tiếp cận những điều cơ bản cần thiết cho cuộc sống hàng ngày”, các nhà nghiên cứu Naomi Hossain và Jeffrey Hallock viết trong một nghiên cứu cho Friedrich Ebert có trụ sở tại Đức.

“Ở một số quốc gia, những cuộc biểu tình liên quan đến giá cả và chi phí sinh hoạt tiếp tục leo thang thành các cuộc khủng hoảng chính trị lớn, gây ra bạo lực nghiêm trọng, thương vong và yêu cầu thay đổi chính trị”, họ nói.

Các nước châu Phi và Trung Đông đã phải chịu ảnh hưởng đặc biệt khi họ nhập khẩu một lượng lớn thực phẩm, cũng như tác động tiêu cực đối với các nước nghèo trên toàn thế giới do năng lực tài chính hạn chế.

 

 

;
.