.
4 THỦY THỦ LIÊN XÔ VÀ 49 NGÀY TRÔI DẠT TRÊN ĐẠI DƯƠNG

Kỳ 1: Tai họa từ một cơn bão

Cập nhật: 15:28, 23/07/2021 (GMT+7)

Ngày 15/1/1960, 2 sà lan tự hành số hiệu T-36 và T-97 của lực lượng Công binh Liên Xô nhận nhiệm vụ trung chuyển dầu Diesel từ một tàu lớn đến một đơn vị Hồng quân đồn trú ở đảo Iturup thuộc vùng Viễn Đông Liên Xô. Trong khi đang neo đậu cách bờ khoảng 600m, cả 2 gặp phải trận bão lớn, chiếc T-36 trôi dạt suốt 49 ngày và 4 người lính trên đó đã sống sót trong những điều kiện vô cùng khắc nghiệt.

Sà lan T-36 và Askhat Ziganshin, Philip Poplavsky, Anatoly Kryuchkovsky, Ivan Fedotov.
Sà lan T-36 và Askhat Ziganshin, Philip Poplavsky, Anatoly Kryuchkovsky, Ivan Fedotov.

1. Theo trung sĩ Askhat Ziganshin, 21 tuổi, người có cấp hàm cao nhất trên sà lan T-36 thì sau khi nhận 1,5 tấn dầu Diesel, sà lan của ông và chiếc T-97 neo tại một phao nổi nằm cách bờ khoảng 600m, chờ biển lặng sẽ chạy vào đảo Iturup để giao cho đơn vị đồn trú. Và bởi vì trước đó cả 2 sà lan đang trong tình trạng chờ sửa chữa định kỳ nên khẩu phần khẩn cấp dùng trong 10 ngày vốn vẫn để trong tủ cứu sinh thì lại được gửi vào kho. Thay vào đó, họ chỉ có thực phẩm đủ ăn trong 3 ngày, gồm 2 thùng khoai tây, 1 ổ bánh mì, 1,5kg mỡ heo, 1 hộp thịt, 1 thùng chứa nước ngọt tổng cộng 120 lít, 2kg hạt kê và đậu Hà Lan khô, 1kg trà và 1 gói cà phê cùng hộp diêm 50 que.

Không lâu sau, nửa đêm ngày 17/1, một trận cuồng phong bất ngờ ập đến kèm theo mưa rất to. Cùng với 3 binh nhì thủy thủ là Anatoly Kryuchkovsky, Fiipp Poplavski và Ivan Fedotov, tất cả đều 20 tuổi, trung sĩ Askhat Ziganshin khởi động máy cho sà lan tránh xa những tảng đá ngầm gần phao nổi đồng thời cố gắng hướng vào bờ nhưng suốt 10 tiếng đồng hồ, chiếc T-36 vẫn không thể vào đến vùng nước nông để thả neo.

Cuối cùng, cơn bão đi qua nhưng hoàn lưu của nó đẩy chiếc T-36 càng lúc càng ra xa. Trung sĩ Askhat Ziganshin kể: “Dựa theo hải đồ, tôi quyết định cho sà lan ủi vào một doi cát nằm cách đó khoảng 1 hải lý (1.852m) nhưng không may, mới chạy được vài chục mét thì cả 2 động cơ lại hỏng, chưa kể ăng ten của máy bộ đàm bị gió giật tung đi mất…”. Vì thế, họ đành phó mặc cho sóng nước đẩy đưa trong lúc chiếc T-97 may mắn hơn do bị mắc cạn, những người trên đó được cứu sống. Trong nhật ký hải trình, trung sĩ Askhat Ziganshin viết: “Chúng tôi không lường trước được thảm họa. Sà lan T-36 không thể vào bờ”.

Ngay trong cơn bão, bộ chỉ huy lực lượng Hồng quân đồn trú trên đảo Iturup đã biết những thủy thủ trên 2 sà lan đang gặp nguy hiểm, nhất là không thể liên lạc được với chiếc T-36 bằng bộ đàm nên khi bão vừa ngớt, họ cử 1 đội cứu hộ gồm 15 binh sĩ lên đường tìm kiếm. Các vật thể mà đội cứu hộ tìm thấy chỉ gồm phao cứu sinh cùng 1 chiếc hộp gỗ bên trong có tấm hải đồ bọc nhựa, cả 2 đều có số hiệu của sà lan T-36 nên đã dẫn đến kết luận rằng T-36 bị sóng đánh chìm, 4 người trên sà lan thiệt mạng. 1 tuần sau đó, gia đình họ nhận được thông báo về sự việc đau lòng này.

2. Ngày qua ngày, chiếc T-36 càng lúc càng trôi xa quần đảo Kuril. Đến ngày thứ 12, thức ăn hết, dù họ đã cố gắng dè sẻn. Trung sĩ Askhat Ziganshin kể: “2 thùng khoai tây để trong phòng máy bị sóng đánh tung nắp, khoai đổ ra tứ tung. Bồn chứa dầu Diesel cho đảo Iturup cũng vỡ nên khoai dính đầy dầu. Nước uống bị nhiễm dầu, nó có màu nâu đỏ nhưng rồi cũng uống hết, kể cả nước dùng làm mát động cơ. Mỗi khi trời mưa, chúng tôi lấy vải trải giường cùng những tấm chăn phủ lên sàn sà lan, sau đó vắt lấy nước. Và mặc dù đã tận dụng tất cả những gì có trên sà lan làm cần câu nhưng chúng tôi không hề bắt được con cá nào”.

Sau này khi được cứu thoát, họ mới biết thời điểm ấy chiếc T-36 đang ở trong dòng hải lưu Kuroshio mà những người đánh cá Nhật Bản gọi là “Dòng chảy đen”. Do tốc độ dòng chảy lên đến 40km/giờ nên vùng biển ấy không có cá. Chưa hết, trung sĩ Ziganshin vô tình tìm thấy tờ báo Krasnaya Zvezda ở cạnh mấy cái lốp xe, trong đó có bài nói về khu vực nơi có dòng hải lưu Kuroshio lại là nơi mà Liên Xô dự định tiến hành huấn luyện phóng tên lửa và Moscow đã thông báo rộng rãi kế hoạch phóng sẽ bắt đầu từ ngày 15/1 đến ngày 15/2 nên cũng dễ hiểu vì sao xung quanh T-36 không hề có bóng dáng tàu thuyền. Mỗi khi đêm xuống, để giữ ấm và cũng để tàu bè đi gần nhìn thấy, cả 4 người tận dụng các vật liệu dễ cháy có sẵn như: thùng gỗ, phao cứu sinh, giẻ lau, dầu máy và các tấm ván từ 4 chiếc giường của họ, đốt thành đống lửa. Khi những thứ này đã hết, họ đốt những chiếc lốp xe dùng làm vật đệm chống va chạm, treo trước mũi và hai bên hông xà lan.

Để đánh lừa dạ dày với hy vọng sẽ được cứu thoát, trung sĩ Askhat Ziganshin nghĩ ra cách ăn những thứ gần như không ăn được như thắt lưng da, giày, ủng và kem đánh răng. Trung sĩ Ziganshin kể: “Chúng tôi cắt thắt lưng da thành từng sợi nhuyễn như sợi mì rồi nấu cho đến khi nó nhão ra. Hết thắt lưng, chúng tôi ăn đôi giày bốt bằng cách ngâm trong nước biển để loại bỏ hết lớp xi, sau đó cắt thành từng miếng nhỏ, nướng trên lửa đến khi nó gần như cháy thành than thì cho vào miệng, cố nhai cho tan hết còn kem đánh răng, chúng tôi ngậm để tìm chút ít vị ngọt”.

Ngày 23/2, cả 4 người trên sà lan T-36 đều muốn kỷ niệm “Ngày bảo vệ Tổ quốc” - là ngày lễ quốc gia của Liên Xô. Tuy nhiên, họ chẳng còn gì để ăn nên trung sĩ Ziganshin lấy điếu thuốc lá cuối cùng để tất cả cùng hút. Thủy thủ Anatoly Kryuchkovsky nhớ lại: “Mỗi năm đến ngày lễ này, chúng tôi ngập tràn trong rượu Vodka, ngỗng quay, thịt heo và dưa chuột muối, trứng cá hồi với bánh mì đen nên khi nhận mẩu thuốc lá từ tay Ziganshin, tôi vừa hút vừa chảy nước mắt. Có lẽ để giúp tôi bớt xúc động, Ivan Fedotov nói đùa “chắc lâu ngày anh không hút nên khói thuốc làm mắt anh cay…”.

(Còn nữa)

VŨ CAO 

(Theo History - USSR Self-

propelled barge T-36)

 
.
.
.