Ăn tết ở Myanmar

Thứ Sáu, 29/01/2021, 20:29 [GMT+7]
In bài này
.

2 năm trước, trong chuyến đi viết bài về thợ khai thác ngọc bích ở Hpakant, bang Kachin, Myanmar, tôi không nghĩ rằng ngày tôi đến lại đúng vào dịp tết cổ truyền của quốc gia này- gọi là Thingyan – kéo dài từ 13-4 đến 16-4 dương lịch…

Kéo cả vòi tưới cây trong nhà ra để vui lễ té nước.
Kéo cả vòi tưới cây trong nhà ra để vui lễ té nước.

Ngay khi chiếc xe giường nằm dừng lại ở cửa khẩu biên giới tỉnh Vân Nam, Trung Quốc để khách làm thủ tục xuất nhập cảnh sang thị trấn Monghpyak (Myanmar) tôi đã “ngửi” thấy mùi tết Thingyan qua nét mặt của hầu hết mọi người trên xe cùng những câu chuyện giữa họ với nhau, càng lúc càng náo nhiệt dù tôi chẳng hiểu họ nói gì. Xaisomvan, hướng dẫn viên nghiệp dư người Lào, bạn đồng hành của tôi trong chuyến đi này giải thích bằng tiếng Anh: “Phần lớn họ từ Myanmar sang Trung Quốc làm thuê, nay về ăn tết. Nói theo Việt Nam của anh thì đêm nay là đêm giao thừa…”.

Xe vào bến, tôi khoác ba lô cùng Xaisomvan đến nhà Thabyay, người Myanmar, em rể anh. Trên đường, tôi thấy đa số phụ nữ, cả trẻ lẫn già đều bôi mặt bằng một loại bột tương tự như phấn trắng. Hỏi Xaisomvan, anh cho biết đó là thứ mỹ phẩm rất phổ biến ở đất nước này, mài ra từ gỗ đàn hương, có tác dụng giữ ẩm da, chống nắng, giúp cho da có mùi thơm dịu. Thực hư không biết ra sao chứ nhìn họ, tôi thấy có nét gì đó giống như những diễn viên hát bội, nhất là lúc họ cười.

Là quốc gia mà dân số hầu hết là tín đồ đạo Phật. Theo truyền thống, trong ngày giao thừa người Myanma chỉ ăn một bữa trước buổi trưa. Trên đường phố, Phật tử ngồi thành hàng dài, trước mặt họ là những cái bình bằng đất nung, bên trong chứa thức ăn và những trái dừa xanh còn nguyên cả cuống, bao bọc bởi vài nải chuối xanh cùng những nhành lá dứa, dùng để cúng dường cho các nhà sư. Theo Thabyay, dừa, chuối và lá dứa sẽ được các nhà sư làm lễ gội đầu vào thời điểm bước sang năm mới.

Khi màn đêm buông xuống, quang cảnh mới thật sự náo nhiệt. Trên những con phố chính của thị trấn Monghpyak, những gian hàng quây bằng những tấm vải nhựa  sặc sỡ cùng những chiếc vỏ xe sơn xanh đỏ, sáng bừng dưới ánh đèn điện. Ở những gian hàng ấy, dân địa phương bày bán đồ thủ công mỹ nghệ trong tiếng nhạc xập xình tạo ra bởi trống, kèn và một loại nhạc cụ nhìn như đờn cò. Hơn chục thiếu nữ váy áo hoa văn họa tiết thêu rất cầu kỳ, cổ đeo vòng bằng dây kim tuyến, say sưa nhảy múa. Những bông hoa Padauk - mỗi năm chỉ nở một lần vào dịp tết Thingyan cài trên tóc họ cũng lắc lư theo. Người dân và khách du lịch đổ đến càng lúc càng đông. Không khí nhộn nhịp đến nỗi tôi quên cả thời gian và chợt giật mình khi đồng hồ chỉ 2 giờ sáng.

6 giờ sáng hôm sau, mùng 1 tết, tiếng Myanmar gọi là Akyanei, con cháu đến thăm ông bà, chú bác, cha mẹ… để tỏ lòng kính trọng bằng lễ Gadaw. Họ đựng nước trong một cái chậu đất nung. Sau khi lạy tạ, họ dùng nước ấy gội đầu cho các bậc bề trên với dầu dừa. 8 giờ, mấy khẩu đại bác gầm lên một loạt ngắn, báo hiệu Thagyamin (thần mùa xuân) từ tiên giới đã hạ cánh xuống đất. Tất cả những người có mặt ở ngoài đường đều mang theo 1 chậu nước và 1 cành lá để bắt đầu cho lễ té nước với thành ý rửa sạch mọi tội lỗi, khó khăn, nhọc nhằn của 365 ngày qua. Người ta té nước vào bất cứ ai đứng gần họ và không chỉ té bằng chậu, xô hay gáo dừa, đám thanh niên nam nữ còn sử dụng những khẩu súng bắn nước bằng nhựa. Lại có một số kéo nguyên cái vòi tưới cây từ nhà ra, cứ thế phun hết tốc lực. Và mặc dù tôi đã rất đề phòng vì sợ ướt máy chụp hình nhưng vẫn lãnh đủ một quả bong bóng nước vào vai mà nước lại pha phẩm màu xanh nên từ cổ đến bụng tôi, cái áo thun trắng biến thành nửa xanh nửa trắng!

Mùng 2 tết, người ta đi thăm nhau. Myanmar có câu ngạn ngữ: “A thee ma, thayet. A thar ma, wet. A ywet ma, lahpet”, nghĩa là “Trong các loại quả, xoài là tuyệt nhất. Trong các loại thịt, heo là tuyệt nhất. Trong các loại lá, lahpet là tuyệt nhất” nên dù giàu hay nghèo, nhà nào cũng có 3 món này. Xoài và thịt heo thì tôi không lạ nhưng khi ăn thử món Lahpet (lá trà muối chua) thì quả thật rất ngon, nhất là ăn kèm với Ngapi - hải sản muối - chủ yếu là tôm. Thabyay, em rể Xaisomvan nói: “Chưa hết đâu, đây chỉ là những món đặc trưng của vùng Monghpyak, còn những món của bang Rakhine, bang Mom và những món có nguồn gốc từ Lào, Thái Lan hay Trung Quốc nữa…”.

Mùng 3 tết, vẫn là những cuộc té nước kéo dài từ sáng sớm đến nửa khuya. Rượu Thaiye làm từ hoa cây thốt nốt chảy như suối. Ở giữa chợ, người ta xếp cả chục cái chảo lớn thành hàng dài, nước trong chảo đun sôi sùng sục rồi từng nắm xôi có miếng đường thốt nốt ở bên trong được thả vào. Khi nắm xôi nổi lên, họ vớt ra, đặt trên những tấm lá chuối, ai muốn ăn cứ lấy vì đó là bữa ăn của Thagyamin (thần mùa xuân) trước khi trở lại thiên đường. Khi tôi chuẩn bị nếm thử, Thabyay nói coi chừng bên trong không phải đường thốt nốt mà là ớt sừng chim, loại ớt cay xé cuống họng do những người thích đùa vẫn thường cho vào để đánh lừa du khách.

Mùng 4, ngày cuối cùng của tết Thingyan, vẫn là ăn uống, nhảy múa, ca hát, té nước cùng hàng chục trò chơi dân gian. Món ăn đặc trưng của ngày này là gạo nếp trộn vừng (mè) và dừa nạo rồi nướng với đường thốt nốt. Vợ chồng Thabyay cùng Xaisomvan ra sông thả cá phóng sinh với lời khấn, đại ý: “Chúng tôi thả ngươi 1 lần, ngươi thả lại chúng tôi 10 lần”. Bữa ăn tiễn tôi và Xaisomvan có 9 món, gồm hoa Daniyn Thi xào dầu dừa, bánh mì Palata, cơm gạo nếp, thịt heo muối, Ngapi, cà ri gà, bún Mohinga mà trong nước lèo có gừng, hành tây, cá, tỏi, sả, trứng luộc và thân cây chuối thái nhỏ…

Xế chiều mùng 4, tôi và Xaisomvan ra bến xe để đi Hpakant, bang Kachin, quê hương của loại ngọc bích đẹp nhất thế giới. Chưa kịp bước lên xe, tôi bị nguyên một xô nước tạt vào người trong tiếng cười nắc nẻ của hàng chục thanh niên nam nữ. Quần áo thì dễ vì tôi vào thay trong nhà vệ sinh nhưng tệ nhất là đôi giày vải của tôi ướt sũng. Báo hại trong suốt nửa chuyến hành trình, tôi phải cởi nó ra rồi treo lủng lẳng trên cửa sổ xe cho khô. Xaisomvan cười: “Monghpyak tiễn biệt anh đấy”…

VŨ CAO

;
.