Quốc hội tiến hành lấy phiếu tín nhiệm các chức danh do quốc hội bầu, phê chuẩn
Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 6, sáng 25/10, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, Quốc hội tiến hành lấy phiếu tín nhiệm bằng hình thức bỏ phiếu kín đối với 44 chức danh do Quốc hội bầu và phê chuẩn; tiến hành thảo luận ở hội trường về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo Luật Căn cước. Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương điều hành nội dung phiên họp.
Quang cảnh phiên họp sáng 25/10 |
Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương điều hành phiên họp |
Việc lấy phiếu tín nhiệm nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Bộ máy Nhà nước. Đây là phương thức giám sát quan trọng, thể hiện sự ghi nhận, đánh giá của Quốc hội đối với những nỗ lực, cố gắng và kết quả công tác từ đầu nhiệm kỳ đến nay của những người được lấy phiếu tín nhiệm. Trên cơ sở báo cáo của người được lấy phiếu tín nhiệm đã gửi đến từng đại biểu Quốc hội, lắng nghe ý kiến của cử tri, từ thực tiễn theo dõi, giám sát của mình, mỗi đại biểu Quốc hội phát huy tinh thần trách nhiệm cao đối với đất nước, đối với tổ chức, hoạt động của Quốc hội và bộ máy nhà nước, đánh giá công tâm, khách quan và chính xác trong ghi phiếu tín nhiệm đối với từng chức danh do Quốc hội bầu và phê chuẩn.
Đoàn ĐBQH tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tham dự phiên họp |
Trước đó, chiều ngày 24/10, với 95,34% tổng số đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành, Quốc hội nhất trí thông qua danh sách 44 người được lấy phiếu tín nhiệm tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XV.
Dự kiến vào phiên họp chiều 25/10, Quốc hội sẽ nghe báo cáo kết quả kiểm phiếu và thông qua Nghị quyết xác nhận kết quả lấy phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội bầu, phê chuẩn.
Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội Lê Tấn Tới trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Căn cước |
Tiếp theo nội dung lấy phiếu tín nhiệm, Quốc hội nghe Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội Lê Tấn Tới trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Căn cước của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Dự thảo Luật Căn cước trình Kỳ họp Thứ 6 gồm 7 Chương, 46 Điều.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhất trí với đa số ý kiến tán thành tên gọi Luật Căn cước và tên thẻ căn cước và cho rằng việc sử dụng tên gọi Luật Căn cước thể hiện rõ tính khoa học, sẽ bao quát được phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng của Luật gồm cả công dân Việt Nam và người gốc Việt Nam đang sinh sống tại Việt Nam nhưng chưa xác định được quốc tịch, phù hợp với bản chất và mục tiêu quản lý căn cước của Nhà nước ta; phù hợp với phương thức quản lý trong thời kỳ cách mạng 4.0, xây dựng Chính phủ số, xã hội số. Việc sử dụng tên gọi thẻ căn cước như dự thảo Luật là phù hợp, sẽ bao hàm được đầy đủ thông tin về căn cước của công dân. Ngoài ra, với việc mở rộng, tích hợp nhiều thông tin vào thẻ căn cước vừa nhằm hướng tới mục tiêu quản lý nhà nước về căn cước toàn diện hơn, đầy đủ hơn, vừa tạo thuận lợi cho người dân trong việc sử dụng thông tin cá nhân. Việc đổi tên thẻ căn cước như dự thảo Luật Chính phủ trình không làm phát sinh thủ tục, chi phí đổi thẻ với người dân. Theo đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội cho giữ tên Luật Căn cước và tên thẻ căn cước như Chính phủ trình.
Về giấy chứng nhận căn cước và quản lý người gốc Việt Nam tại Điều 7: Tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo chuyển Điều này về Chương III (Điều 30), đổi tên Chương III thành “Thẻ căn cước, giấy chứng nhận căn cước” và bổ sung, chỉnh lý Điều 5 “Quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam và người gốc Việt Nam chưa xác định được quốc tịch về căn cước, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và Cơ sở dữ liệu căn cước”, chỉnh sửa toàn diện Điều này như dự thảo Luật tiếp thu, chỉnh lý nhằm quy định cụ thể, rõ hơn về người gốc Việt Nam chưa xác định được quốc tịch; điều kiện cấp giấy chứng nhận căn cước, việc cấp, cấp đổi, cấp lại giấy chứng nhận căn cước; thông tin được thu thập, cập nhật, lưu trữ và việc khai thác, sử dụng thông tin về người gốc Việt Nam chưa xác định được quốc tịch trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu căn cước; việc quản lý người gốc Việt Nam chưa xác định được quốc tịch được cấp giấy chứng nhận căn cước…; bổ sung đầy đủ hơn về quyền và nghĩa vụ của người gốc Việt Nam chưa xác định được quốc tịch.
Về trung tâm dữ liệu quốc gia quy định tại các điều 9, 11, 12 và 13, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng an ninh của Quốc hội báo cáo: Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo rà soát các nội dung liên quan và thấy rằng, hiện nay Đề án xây dựng Trung tâm dữ liệu quốc gia đã được Bộ Chính trị đồng ý về chủ trương cho phép thực hiện Đề án và Chính phủ đã hoàn thiện các thủ tục, sẽ sớm ban hành Nghị quyết phê duyệt Đề án này trong thời gian tới. Như vậy, đến thời điểm này, việc xây dựng trung tâm dữ liệu quốc gia cơ bản đã rõ. Việc quy định trung tâm dữ liệu quốc gia trong dự thảo Luật sẽ tạo cơ sở cho việc triển khai kết nối, chia sẻ thông tin giữa Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư với trung tâm dữ liệu quốc gia ngay sau khi dự án Luật Căn cước được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành.Vì vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội cho giữ quy định liên quan đến trung tâm dữ liệu quốc gia trong dự thảo Luật.
Về thông tin của công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư (Điều 10) và thông tin trong Cơ sở dữ liệu căn cước (Điều 16), Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội báo cáo: Để triển khai Đề án 06, thì việc mở rộng, tích hợp thêm nhiều thông tin khác của công dân và người gốc Việt Nam chưa xác định được quốc tịch trong các cơ sở dữ liệu chuyên ngành vào Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu căn cước là rất cần thiết; đồng thời dự thảo Luật quy định chỉ cập nhật các trường thông tin trong thực tế quản lý đã rõ, được sử dụng thường xuyên, cần có trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Trong các trường thông tin quy định tại Điều này có 07 trường thông tin bắt buộc người dân phải cung cấp nếu các trường thông tin này chưa có hoặc chưa đầy đủ. Các trường thông tin còn lại là những thông tin nhằm bảo đảm quyền lợi của công dân khi sử dụng các tiện ích, giá trị do Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đem lại; các thông tin này sẽ được cập nhật qua cung cấp tự nguyện của người dân và được chia sẻ qua các cơ sở dữ liệu chuyên ngành để phục vụ các giao dịch hành chính, dân sự. Ngoài ra, dự thảo Luật cũng có những quy định bảo đảm độ an toàn cao, bảo đảm kiểm soát an ninh mạng tốt nhất, bảo vệ ở mức cao nhất đối với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và Cơ sở dữ liệu căn cước. Việc giao Chính phủ quy định chi tiết những thông tin khác được cập nhật trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư nhằm vừa bảo đảm tính ổn định của dự thảo Luật, nhưng vẫn có tính linh hoạt đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số và nhu cầu thu thập, cập nhật thông tin trong từng thời kỳ; đồng thời phù hợp với quy định tại điểm d khoản 3 Điều 40 Luật Giao dịch điện tử. Vì vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội cho giữ nội dung này như dự thảo Luật Chính phủ trình.
Về nội dung thể hiện trên thẻ căn cước (Điều 19), Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội cho biết: Các thông tin thể hiện trên thẻ căn cước đã được đánh giá cụ thể, bảo đảm không trùng lặp giữa các trường thông tin, thống nhất giữa các loại giấy tờ tùy thân phổ biến hiện nay của công dân, tương thích với các quy định của pháp luật có liên quan; đồng thời để tạo thuận lợi hơn cho người dân trong quá trình sử dụng thẻ căn cước; việc tích hợp cả QR code và chíp điện tử trên thẻ căn cước nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng thông tin công dân khi thực hiện các thủ tục hành chính, giao dịch dân sự. Song trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo nghiên cứu, chỉnh sửa một số trường thông tin tại khoản 2, bổ sung khoản 3 quy định cụ thể về thông tin được mã hoá, lưu trữ trong bộ phận lưu trữ trên thẻ căn cước như dự thảo Luật tiếp thu, chỉnh lý bảo đảm phù hợp và khả thi.
Về tích hợp thông tin vào thẻ căn cước (Điều 23): Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo chuyển nội dung đoạn 2 khoản 3 Điều 22 sang Điều 33, theo đó chỉ quy định khi phát hiện có sự khác nhau giữa thông tin trên thẻ căn cước với thông tin trong căn cước điện tử; không yêu cầu phải so sánh, đối chiếu thông tin trong mọi trường hợp.
Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội cũng cho biết: Dự thảo Luật chỉ quy định tích hợp một số thông tin có tính ổn định, được sử dụng thường xuyên và để thuận tiện cho người dân trong các giao dịch hành chính, dân sự; đồng thời giao Thủ tướng Chính phủ quyết định việc tích hợp các giấy tờ khác để bảo đảm linh hoạt khi có thay đổi, phù hợp với việc xây dựng, phát triển các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành, thực hiện chuyển đổi số ở nước ta. Vì vậy, quy định như dự thảo Luật về việc tích hợp một số loại thông tin vào thẻ căn cước là phù hợp, đồng thời đã rà soát, nghiên cứu, chỉnh lý các quy định tại Điều này để bảo đảm thông tin tích hợp vào thẻ căn cước được chính xác, kịp thời, an toàn và hiệu quả; bổ sung điểm c và điểm d khoản 5 quy định phân loại đối tượng được khai thác đối với thông tin được mã hóa trong thẻ căn cước
Về cấp, quản lý căn cước điện tử (Chương IV), Trên cơ sở ý kiến của đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo chỉnh lý lại khoản 12 Điều 3 về “danh tính điện tử của công dân Việt Nam”, lược bỏ Điều 32 dự thảo Luật và chỉnh lý khoản 2 Điều 31 dự thảo Luật để thể hiện rõ hơn mối quan hệ giữa “danh tính điện tử” và “căn cước điện tử”; chỉnh lý khái niệm về căn cước điện tử tại khoản 16 Điều 3; bổ sung 03 khoản tại Điều 31 quy định cụ thể hơn về thông tin trong căn cước điện tử, thẩm quyền cấp căn cước điện tử và giao Chính phủ quy định trình tự, thủ tục cấp căn cước điện tử; chỉnh lý tên Điều 33 thành “Giá trị sử dụng của căn cước điện tử”, bỏ khoản 2 Điều 33, chuyển nội dung này về Điều 34 và thiết kế thành khoản 5 giao Chính phủ quy định trình tự, thủ tục khóa, mở khóa căn cước điện tử như dự thảo Luật tiếp thu, chỉnh lý.
Về hiệu lực thi hành (Điều 45), Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội thông tin: Trên cơ sở báo cáo, đề nghị của Ban soạn thảo, UBTVQH thấy rằng cơ bản đến ngày 01/7/2024, các quy định của Luật có thể triển khai thực hiện đồng bộ, thống nhất và phù hợp với các quy định của pháp luật có liên quan cũng như việc sắp xếp, điều chỉnh đơn vị hành chính trong thời gian tới; không có nội dung nào cần phải quy định có hiệu lực trước. Tuy nhiên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ rà soát và đầu tư cơ bản, có hiệu quả, hoàn chỉnh hạ tầng kỹ thuật để việc khai thác, sử dụng ứng dụng định danh quốc gia đạt hiệu quả, đồng thời chỉnh sửa lại nội dung của khoản 1, bổ sung 01 khoản quy định về việc hết hiệu lực của Luật Căn cước công dân số 59/2014/QH13; tách khoản 2 Điều này để xây dựng bổ sung Điều 44 (trước Điều 45) như dự thảo Luật.
Về quy định chuyển tiếp (Điều 46), Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội cho biết: Hiện nay, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đã kết nối với 13 Bộ, ngành và 63 địa phương; việc kết nối, khai thác Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư phục vụ nhiều hoạt động trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; đồng thời đã cấp được gần 80 triệu thẻ căn cước công dân cho công dân đủ điều kiện. Vì vậy, quy định thời hạn hết giá trị sử dụng của chứng minh nhân dân từ ngày 31/12/2024 cơ bản không tác động lớn đến hoạt động giao dịch của người dân.
Ngoài các nội dung cơ bản nêu trên, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng an ninh của Quốc hội cho biết qua rà soát, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội cho bỏ Điều 32 dự thảo Luật Chính phủ trình, bổ sung 01 điều (Điều 45 như dự thảo Luật tiếp thu, chỉnh lý), chỉnh sửa nội dung và kỹ thuật lập pháp ở 40 điều; sắp xếp lại vị trí một số điều để bảo đảm tính thống nhất và khả thi.
Sau khi nghe Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật, Quốc hội tiếp tục thảo luận một số nội dung còn có ý kiến khác nhau của dự thảo Luật Căn cước, sau đó Quốc hội nghe Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm sẽ giải trình, làm rõ một số vấn đề đại biểu quan tâm.
CHÂU VŨ - MINH THIÊN