.

Vùng Đông Nam Bộ cần có cơ chế mới để phát triển

Cập nhật: 21:07, 22/06/2022 (GMT+7)

● Đẩy mạnh phân cấp cho các địa phương trong liên kết, điều hành Vùng

Sáng 22/6, Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 53-NQ/TW, ngày 29/8/2005 về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ và vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Kết luận số 27-KL/TW, ngày 02/8/2012 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 53-NQ/TW trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

Ông Phạm Viết Thanh, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh; bà Nguyễn Thị Yến, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh và ông Nguyễn Văn Thọ, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh chủ trì hội nghị.
Ông Phạm Viết Thanh, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh; bà Nguyễn Thị Yến, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh và ông Nguyễn Văn Thọ, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh chủ trì hội nghị.

Quy mô kinh tế của Bà Rịa-Vũng Tàu tăng gấp 3 lần

Đánh giá 15 thực hiện Nghị quyết số 53, Bí thư Tỉnh ủy Phạm Viết Thanh cho biết, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã khẳng định được vai trò, vị thế và trách nhiệm trong việc chủ động triển khai các hoạt động hợp tác, liên kết với các địa phương trong vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, nhất là địa phương liền kề như tỉnh Đồng Nai, TP. Hồ Chí Minh để phát huy những nguồn lực, lợi thế so sánh. Các địa phương trong Vùng đã thống nhất giải quyết nhiều khó khăn, vướng mắc, thách thức trong quá trình phát triển như: Hạ tầng giao thông kết nối, thu hút đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực, lao động, khắc phục tình trạng phân hóa giàu nghèo, an sinh xã hội, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, ứng phó với biến đổi khí hậu,….

Theo Bí thư Tỉnh ủy Phạm Viết Thanh, nhờ triệt để tranh thủ những thời cơ, thuận lợi và thế mạnh của một tỉnh ven biển, Bà Rịa - Vũng Tàu đã từng bước hình thành và phát triển nền kinh tế biển đặc trưng với những thế mạnh như công nghiệp, cảng biển, khai thác, chế biến dầu khí, đánh bắt thủy hải sản, dịch vụ, thương mại, logistics. Quy mô kinh tế của tỉnh đến năm 2020 đạt 309.730 tỷ đồng, gấp 3 lần so với năm 2005 (nằm trong số 4 địa phương đứng đầu của vùng); quy mô GRDP trên địa bàn tỉnh năm 2021 xếp top đầu của 63 tỉnh thành. Chất lượng cuộc sống người dân ngày một nâng cao…

 “Đây là nỗ lực, thành tích lớn lao của cả hệ thống chính trị, là kết tinh của bề dày truyền thống đoàn kết; sự nỗ lực, chủ động, linh hoạt, sáng tạo, sâu sát thực tiễn, kịp thời cập nhật các vấn đề mới phát sinh để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện toàn diện các mặt công tác của Đảng bộ và các thế hệ lãnh đạo tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trong những nhiệm kỳ qua”, Bí thư Tỉnh ủy Phạm Viết Thanh nhất mạnh.

Cơ chế liên kết chưa đủ mạnh

Bà Rịa-Vũng Tàu là địa phương đầu tiên của vùng Đông Nam Bộ tổ chức hội nghị tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 53. Đây cũng là lần đầu tiên hội nghị do Tỉnh ủy tổ chức không trình bày báo cáo tổng kết (báo cáo đã chuyển trước cho các đại biểu nghiên cứu) để dành toàn bộ thời gian cho đại biểu thảo luận, tham luận chỉ ra những hạn chế, vướng mặc trong liên kết vùng và đề xuất các giải pháp tháo gỡ, thúc đẩy sự phát triển của vùng Đông Nam Bộ nói chung và tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu nói riêng trong thời gian tới.

Phát biểu tại hội nghị, ông Mai Ngọc Thuận, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch HĐND tỉnh cho rằng, các quy định về liên kết bắt buộc còn chung chung nên khó triển khai áp dụng và chưa có chế tài có tính ràng buộc trong liên kết vùng. Chất lượng liên kết hay mức độ triển khai các hoạt động liên kết theo các biên bản hay thỏa thuận hợp tác chưa như kỳ vọng. Liên kết giữa các địa phương chưa dựa trên sự chuyên môn hóa hay phân công lao động theo chuỗi giá trị. Những sự liên kết mang tính lâu dài như phát triển mạng lưới khu công nghiệp, thu hút và quản lý đầu tư, giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao… vẫn chưa được chú trọng. Đặc biệt, Hội đồng Vùng không có thẩm quyền huy động và sử dụng nguồn lực nhằm thực hiện các chương trình, dự án của vùng.

“Vùng Đông Nam Bộ là vùng đứng đầu cả nước về quy mô GRDP và thu ngân sách nhà nước. song thời gian gần đây, tốc độ phát triển của các địa phương trong vùng đã có dấu hiệu chậm lại. Từ đó vai trò dẫn dắt tăng trưởng của vùng đang suy giảm so với chính mình và so với các vùng khác”, ông Mai Ngọc Thuận nhấn mạnh.

Trên cơ sở phân tích những điểm nghẽn trong liên kết vùng, ông Mai Ngọc Thuận cho rằng, để các địa phương trong vùng tiếp tục duy trì được động lực phát triển, đóng góp vào sự phát triển chung của quốc gia, phải thể chế hóa mô hình tổ chức liên kết vùng nhằm bảo đảm cơ sở pháp lý thực hiện quản lý nhà nước về: phát triển vùng, điều tiết các nhu cầu cấp vùng, thống nhất và tổ chức thực hiện tốt các quy hoạch vùng; các hoạt động phối hợp, liên kết giữa các địa phương trong vùng về xúc tiến đầu tư, đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng, phân bổ nguồn lực phù hợp để phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của từng địa phương, tránh tình trạng cạnh tranh nội vùng, gây lãng phí tiềm năng và giảm hiệu quả sử dụng nguồn lực thậm chí triệt tiêu động lực phát triển. Đẩy mạnh phân cấp cho các địa phương trong vùng Đông Nam Bộ quyết định chủ trương và quyết định đầu tư đối với các dự án đã có trong quy hoạch được Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Mở rộng phân cấp cho chính quyền địa phương quyết định các nội dung liên quan đến dự án thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương như chuyển mục đích sử dụng đất rừng sang mục đích khác để thực hiện dự án, phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường…

Nhìn nhận về liên kết vùng dựa trên yếu tố bề nổi về hạ tầng giao thông, Giám đốc Sở GT-VT Trần Thượng Chí cho biết: 15 năm qua, mặc dù đạt được được nhiều thành tựu về phát triển cơ sở hạ tầng giao thông và cảng biển, tuy nhiên kết quả vẫn chưa theo kỳ vọng. Giao thông kết nối vùng còn hạn chế, chưa theo kịp tiến độ quy hoạch và nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, nên chưa phát huy hiệu quả cao nhất về kết hợp vận tải đa phương thức và nâng cao hiệu quả khai thác hệ thống cảng biển.

Giao thông, du lịch tiếp tục tìm hướng liên kết

Giám đốc Sở GT-VT cho biết, sẽ tiếp tục tham mưu Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh huy động tất cả các nguồn lực để tạo nguồn vốn đầu tư hạ tầng giao thông kết nối và hạ tầng cảng biển để tạo bước đột phá về cảng biển, dịch vụ hậu cần cảng; phấn đấu tổ chức tổ chức khởi công xây dựng cầu Phước An trong tháng 9/2022 nhằm kết nối hệ thống cảng Cái Mép - Thị Vải với đường cao tốc Bến Lức - Long Thành để kết nối với phía Nam thành phố Hồ Chí Minh và khu vực Tây Nam bộ. Đồng thời thúc đẩy tiến độ đầu tư các dự án giao thông kết nối khu vực cảng Cái Mép – Thị Vải:  đường 991B, đường sau cảng Mỹ Xuân, đường Long Sơn – Cái Mép, đường ĐT992 đoạn từ cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu đến quốc lộ 51 để kết nối các khu vực kinh tế và nâng cao hiệu quả khai thác cảng trung chuyển Cái Mép- Thị Vải; đầu tư đường ven biển ĐT994, tuyến kết nối từ đường cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu đến vòng xoay đường 3/2 thành phố Vũng Tàu để phát triển du lịch, đô thị và đáp ứng nhu cầu đi lại của người dân…

Tỉnh phấn đấu tổ chức khởi công xây dựng cầu Phước An trong tháng 9/2022 nhằm kết nối hệ thống cảng Cái Mép – Thị Vải với đường cao tốc Bến Lức – Long Thành. Trong ảnh: Phối cảnh cầu Phước An.
Tỉnh phấn đấu tổ chức khởi công xây dựng cầu Phước An trong tháng 9/2022 nhằm kết nối hệ thống cảng Cái Mép – Thị Vải với đường cao tốc Bến Lức – Long Thành. Trong ảnh: Phối cảnh cầu Phước An.

Để phát triển kinh tế du lịch, ông Trịnh Hàng, Giám đốc Sở Du lịch cho biết, ngành tập trung liên kết hiệu quả hơn với các địa phương trong vùng Đông Nam Bộ và mở rộng ra các vùng khác như Tây Nam bộ, Tây Nguyên, Nam Trung bộ nhằm khai thác hiệu quả hơn các sản phẩm đặc thù ở từng địa phương, đa dạng hóa các loại hình du lịch, tăng tính cạnh tranh của vùng… từ đó các DN kinh doanh du lịch có điều kiện mở rộng thị trường. Nghiên cứu và nỗ lực cùng các địa phương trong vùng thúc đẩy hoạt động liên kết hiệu quả hơn nhằm đạt được 2 mục tiêu lớn là quảng bá thông tin xúc tiến du lịch và xúc tiến đầu tư du lịch.

Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thống nhất đề nghị Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết mới về chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh Vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030 và tầm nhìn đến 2045; trong đó tập trung vào 5 nhiệm vụ, giải pháp quan trọng, với 3 đột phá chiến lược: (1) Đẩy mạnh và đổi mới phân cấp cho các địa phương trong liên kết, điều hành Vùng. (2) Đến năm 2030: Cái Mép - Thị Vải trở thành Khu thương mại tự do với 3 chức năng: Cảng nước sâu trung chuyển quốc tế - Logistics - Hệ sinh thái công nghiệp công nghệ cao của cả vùng; Tiếp tục đầu tư cho Sân bay quốc tế Long Thành để trở thành cảng hàng không tầm cỡ thế giới, đạt công suất đến 100 triệu khách/năm (3) Đẩy nhanh quá trình chuyển đối số; hình thành liên kết đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao giữa các địa phương trong Vùng.

Bài, ảnh: PHÚC LƯU

.
.
.