.

Nâng cao chất lượng công tác giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên

Cập nhật: 18:39, 07/02/2018 (GMT+7)

Học tập lý luận chính trị là công việc thường xuyên, lâu dài đối với mỗi cán bộ, đảng viên nhằm hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học, cách mạng, từ đó vận dụng vào thực tiễn công tác. Tuy nhiên, hiện nay ở một số nơi, một số cán bộ, việc học tập lý luận chính trị có biểu hiện bị sao nhãng, coi thường.

Đối với công tác xây dựng Đảng, việc giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, vai trò của lý luận là vô cùng quan trọng. Trong tác phẩm “Làm gì”, V.I. Lênin nêu luận điểm nổi tiếng: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng”, “Chỉ Đảng nào được một lý luận Tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong”. Kế thừa và phát triển quan điểm đó, trong sự nghiệp cách mạng và trong hệ thống tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người đặc biệt coi trọng vai trò của lý luận.

Trong “Sửa đổi lối làm việc”, ngay ở phần đầu của tác phẩm, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu “Phải sửa đổi lề lối làm việc của Đảng”, thông qua việc mỗi đảng viên phải sửa chữa những khuyết điểm của mình và của đồng chí. Người khẳng định, khuyết điểm có nhiều thứ nhưng đầu tiên và nguy hiểm nhất là “Khuyết điểm về tư tưởng, tức là bệnh chủ quan”, “Nếu không chữa ngay, để nó lây ra, thì có hại vô cùng” vậy bệnh chủ quan do đâu mà có? Nguyên nhân gây ra bệnh chủ quan được chỉ rõ, đó là do “kém lý luận , hoặc khinh lý luận, hoặc lý luận suông”.

Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt đề cao vai trò của lý luận. Theo Người, “lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc đấu tranh, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng, rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế. Đó là lý luận chân chính”. Lý luận có vai trò đặc biệt quan trọng bởi nó soi đường cho thực tiễn. “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”. Nếu không chú tâm nghiên cứu lý luận Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không vững lý luận chính trị sẽ dẫn đến suy thoái về tư tưởng chính trị. Suy thoái đó diễn ra mà không ngăn chặn sẽ dẫn đến coi thường lý luận, không đủ sức bảo vệ chính mình và dễ tiếp thu tư tưởng trái chiều. Vì thế, việc học tập lý luận chính trị có vai trò hết sức quan trọng; là công việc cần thiết, cấp bách, thường xuyên và lâu dài của mỗi tổ chức, cán bộ, đảng viên.

Để nâng cao trình độ lý luận của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay, đòi hỏi phải có những giải pháp kiên quyết và đồng bộ, cả từ phía người học và từ công tác giáo dục lý luận chính trị. Tập trung vào các nhóm giải pháp sau:

Một là, phải xác định đúng vai trò của công tác giáo dục lý luận chính trị. Theo Hồ Chí Minh, yếu tố đầu tiên quyết định hiệu quả của công tác huấn luyện lý luận là phải xác định đúng vai trò của công tác huấn luyện. Người khẳng định “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Vì vậy, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”. “Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu”. Huấn luyện cán bộ có nhiều nội dung: huấn luyện nghề nghiệp, huấn luyện lý luận, chính trị, huấn luyện văn hóa,... trong đó, huấn luyện lý luận, chính trị là căn bản của công tác tư tưởng.

Hai là, đổi mới nội dung giáo dục lý luận chính trị theo hướng lý luận phải gắn liền với thực tiễn, phục vụ nhu cầu công tác của người học. Trong “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán quan điểm lý luận phải gắn liền với thực tiễn. Đánh giá về những hạn chế của công tác huấn luyện, Người nêu rõ: “dạy chính trị thì mênh mông mà không thiết thực, học rồi không dùng được,... lý luận và thực tế không ăn khớp với nhau”. 

Trên cơ sở quan điểm của Người, từ thực tiễn hiện nay, công tác giáo dục lý luận chính trị cần đổi mới về nội dung theo hướng gắn lý luận với thực tiễn, phù hợp với trình độ và nhu cầu của người học. Cụ thể: Xây dựng các chương trình đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị cần tăng cường phần nội dung về tình hình, nhiệm vụ cụ thể của ngành, địa phương; tăng phần kiến thức về kỹ năng giải quyết các vấn đề thực tế trong các lĩnh vực công tác. Giảm những nội dung lý luận chung, trừu tượng, trùng lặp trong nhiều chương trình đào tạo.

Ba là, đổi mới phương pháp giáo dục lý luận chính trị theo hướng phát huy tính độc lập, tích cực của người học, “học đi đôi với hành”. Bàn về phương pháp giáo dục lý luận, Hồ Chí Minh phê phán cách học một chiều, áp đặt, “nhồi vào óc” người học lý luận suông, khô khan mà không hướng dẫn cán bộ cách tổ chức thực hiện trên thực tế. Người coi đó là giáo dục “lý luận suông, vô ích”. Hồ Chí Minh đòi hỏi cán bộ tránh lối học thuộc lòng từng câu chữ, hiểu một cách máy móc lý luận Mác - Lênin. Theo Người, cách giáo dục đúng đắn là “trong lúc học lý luận, phải nghiên cứu công việc thực tế, kinh nghiệm thực tế”. 

Bốn là, đa dạng hóa các phương thức giáo dục lý luận chính trị, kết hợp giữa học ở trường, lớp với quá trình tự học của cán bộ. Đối với học tập lý luận chính trị, việc tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng là hình thức cơ bản. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng các lớp huấn luyện phải được tổ chức thường xuyên; chương trình, giáo trình phải có tính hệ thống theo từng mức độ từ thấp đến cao, từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. “Sắp xếp thời gian và bài học phải cho khéo, phải có mạch lạc với nhau, mà không xung đột với nhau”. Bên cạnh việc học theo trường lớp, Hồ Chí Minh đặc biệt đề cao quá trình tự học lý luận của cán bộ. Người yêu cầu: “ở các cơ quan, mỗi ngày ít nhất phải học tập một tiếng đồng hồ... Những giờ học tập đều tính như những giờ làm việc. Khi cất nhắc cán bộ, phải xem kết quả học tập cũng như kết quả công tác khác mà định”.

Các giải pháp trên đây sẽ góp phần thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 04-NQ/TW “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, nhất là trong việc ngăn chặn hiện tượng lười học lý luận chính trị, một biểu hiện rất đáng quan ngại, nếu không được ngăn chặn kịp thời, sự suy thoái đó sẽ dễ dàng dẫn đến nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý.

ĐỖ THỊ PHƯƠNG (dangcongsan.vn)

 
.
.
.