Xử lý hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Hỏi: Cháu tôi 21 tuổi, có mua chiếc điện thoại di động hiệu iPhone của Y. (13 tuổi) là tài sản trộm cắp. Vụ việc bị phát hiện, cơ quan công an chỉ răn đe Y. và giao cho gia đình quản lý, giáo dục. Trong khi đó, cháu tôi lại bị cơ quan công an triệu tập làm việc và tạm giam để điều tra. Vậy, trường hợp này sẽ bị pháp luật xử lý ra sao?
(Lê Văn Tài, TP. Bà Rịa)
Trả lời: Trước hết, cần phải xác định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (TNHS). Điều 12, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), có hiệu lực từ ngày 1/1/2018, quy định về độ tuổi phải chịu TNHS như sau: Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.
Căn cứ quy định trên, người dưới 14 tuổi không phải chịu TNHS do hành vi phạm tội của mình gây ra. Do đó, việc cơ quan công an chỉ xử lý răn đe Y. (13 tuổi) là căn cứ theo quy định của Bộ luật Hình sự.
Về “Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” quy định tại Điều 323 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ 10-100 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.
Như vậy, mặt chủ quan của tội phạm trên chỉ bắt buộc người có hành vi chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết tài sản đó do người khác thực hiện hành vi phạm tội mà có, chứ không buộc người tiêu thụ, chứa chấp phải biết rõ ai là người đã trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội để có được tài sản đó và họ đã bị xử lý hình sự hay chưa.
Liên hệ vào trường hợp thắc mắc nêu trên của ông Tài, mặc dù Y. không bị truy cứu TNHS do chưa đủ tuổi chịu TNHS, nhưng trong trường hợp cháu H. của ông Tài biết rõ chiếc điện thoại di động là do Y. phạm tội mà có, nhưng vẫn mua để sử dụng (hoặc bán lại kiếm lời) thì sẽ bị cơ quan chức năng truy cứu TNHS về “Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại Điều 323 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Luật gia: THANH MAI