Có bắt buộc đổi CCCD thành thẻ căn cước?
Để giải đáp nhiều câu hỏi của bạn đọc, người dân khi Luật Căn cước có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/7/2024, phóng viên Báo Bà Rịa-Vũng Tàu đã có cuộc trao đổi với Thượng tá Đặng Trung Hiếu, Phó trưởng Phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Công an tỉnh.
* Phóng viên: Thưa ông, CMND, CCCD gắn chip còn hiệu lực thì có phải đổi sang thẻ căn cước hay không?
- Thượng tá Đặng Trung Hiếu: CCCD đã được cấp trước ngày luật này có hiệu lực thi hành có giá trị sử dụng đến hết thời hạn được in trên thẻ. CMND còn thời hạn sử dụng sẽ được sử dụng đến hết ngày 31/12/2024.
Trường hợp CCCD, CMND hết hạn sử dụng từ ngày 15/1/2024 đến trước 30/6/2024 tiếp tục có giá trị sử dụng đến hết ngày 30/6/2024. Người dân có thể liên hệ cơ quan công an để thực hiện đổi sang thẻ căn cước khi CCCD, CMND hết hạn sử dụng.
Đồng thời, các loại giấy tờ có giá trị pháp lý đã phát hành có sử dụng thông tin từ CMND, CCCD được giữ nguyên giá trị sử dụng. Cơ quan nhà nước không được yêu cầu công dân thay đổi, điều chỉnh thông tin về CMND, CCCD trong giấy tờ đã cấp.
Điều này giúp tránh gây phiền hà cho người dân phải đổi nhiều lần khi có nhu cầu đổi từ CCCD sang thẻ căn cước khi Luật Căn cước có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2024.
* Ông vui lòng nói rõ hơn về việc cấp thẻ căn cước cho người dưới 14 tuổi?
- Luật Căn cước quy định: Công dân Việt Nam từ đủ 14 tuổi trở lên phải thực hiện thủ tục cấp thẻ căn cước; công dân Việt Nam dưới 14 tuổi được cấp thẻ căn cước theo nhu cầu.
Luật bổ sung quy định về quản lý, cấp thẻ căn cước cho người dưới 14 tuổi để bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của công dân. Phát huy giá trị, tiện ích của thẻ căn cước trong hoạt động của chính phủ số, xã hội số. Việc cấp thẻ căn cước cho người dưới 14 tuổi sẽ thực hiện theo nhu cầu, còn đối với người từ đủ 14 tuổi trở lên là bắt buộc.
Việc cấp thẻ căn cước cho người dưới 14 tuổi cũng phù hợp với quy định pháp luật về xuất nhập cảnh (hiện nay vẫn đang thực hiện cấp hộ chiếu, thị thực cho trẻ em mới khai sinh, có chụp ảnh khuôn mặt) và những quy định pháp luật khác có liên quan, tương thích với pháp luật của nhiều nước trên thế giới.
Lưu ý, những người được cấp thẻ căn cước trước khi đủ 14 tuổi phải thực hiện thủ tục cấp đổi khi đủ 14 tuổi.
Về độ tuổi cấp đổi thẻ căn cước, Luật Căn cước quy định các độ tuổi bắt buộc phải thực hiện thủ tục cấp, đổi: đủ 14 tuổi, 25 tuổi, 40 tuổi và 60 tuổi. Thẻ căn cước được cấp, cấp đổi, cấp lại trong thời hạn 2 năm trước độ tuổi cấp đổi thẻ căn cước theo quy định tại Khoản 1 Điều 21 Luật Căn cước có giá trị sử dụng đến tuổi cấp đổi thẻ căn cước tiếp theo.
* Thưa ông, vì sao phải đổi tên CCCD thành thẻ căn cước?
- Việc đổi tên CCCD thành thẻ căn cước để bảo đảm tương đồng với thông lệ quốc tế (nhiều nước trên thế giới hiện nay cũng đang sử dụng là thẻ căn cước-Identity card). Việc thay đổi tên cũng để bảo đảm tính phổ quát, tạo tiền đề cho hội nhập quốc tế, cho việc thừa nhận, công nhận giấy tờ về căn cước giữa các nước trong khu vực và trên thế giới. Hạn chế việc phải sửa đổi, bổ sung luật khi Việt Nam có ký kết thỏa thuận với các quốc gia khác để sử dụng thẻ căn cước thay cho hộ chiếu trong việc đi lại giữa các quốc gia.
Hiện nay, thẻ căn cước được thiết kế tuân thủ theo tiêu chuẩn chung của ICAO về tổ chức lưu trữ, khai thác thông tin trên chip điện tử. Thẻ có tính bảo mật cao, tiến tới thuận lợi cho người dân trong việc bảo quản, sử dụng trên trường quốc tế.
* Khi đổi tên thẻ có nhiều thủ tục và làm phát sinh chi phí hay không, thưa ông?
- Việc đổi tên CCCD, CMND không phát sinh thủ tục, chi phí với người dân, hoặc chi ngân sách nhà nước, vì tại Điều 46 đã có quy định chuyển tiếp: “Các loại giấy tờ có giá trị pháp lý đã phát hành có sử dụng thông tin từ CMND, CCCD vẫn nguyên hiệu lực pháp luật; CCCD quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật trước ngày Luật Căn cước có hiệu lực thi hành có giá trị như thẻ căn cước được quy định tại luật này...”.
* Luật Căn cước sẽ giải quyết được những tồn tại, vướng mắc gì của Luật Căn cước công dân hiện hành. Việc bỏ quê quán, nơi thường trú trên thẻ căn cước mới có ý nghĩa như thế nào, thưa ông?
- Luật Căn cước đã bổ sung các quy định về việc khai thác, sử dụng thông tin trên CCCD (bao gồm thông tin về căn cước công dân và các thông tin trên giấy tờ khác của công dân được tích hợp vào CCCD) phục vụ việc phát triển các ứng dụng, dịch vụ tiện ích của CCCD vào giao dịch dân sự, thực hiện chuyển đổi số, cải cách thủ tục hành chính.
Bổ sung quy định về việc mở rộng các thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Cơ sở dữ liệu CCCD để thuận lợi trong thực hiện Đề án 06, thực hiện chuyển đổi số quốc gia. Bổ sung quy định về cấp giấy chứng nhận căn cước cho các trường hợp người gốc Việt Nam đang sinh sống ở Việt Nam nhưng chưa xác định được quốc tịch.
Thẻ căn cước mới lược bỏ vân tay; sửa đổi quy định về thông tin số căn cước, dòng chữ “Căn cước công dân”, quê quán, nơi thường trú, chữ ký của người cấp thẻ thành số định danh cá nhân, dòng chữ “Căn cước”, nơi đăng ký khai sinh, nơi cư trú... Việc thay đổi, cải tiến này để tạo thuận lợi hơn cho người dân trong quá trình sử dụng thẻ căn cước, hạn chế việc phải cấp đổi căn cước và bảo đảm tính riêng tư của người dân. Các thông tin căn cước của người dân cơ bản sẽ được lưu trữ, khai thác, sử dụng thông qua chip điện tử trên thẻ căn cước.
Việc chỉnh lý thông tin “Nơi thường trú” in trên CCCD thành “Nơi cư trú” in trên thẻ căn cước để phù hợp với thực tiễn vì nhiều người chỉ có nơi tạm trú, nơi ở hiện tại hoặc không có nơi thường trú, nơi tạm trú. Với quy định này, tất cả người dân Việt Nam sẽ đủ điều kiện để được cấp thẻ căn cước, đều được bảo đảm quyền lợi khi có giấy tờ tùy thân để thực hiện thủ tục hành chính, giao dịch dân sự theo nhu cầu.
* Tính bảo mật của thẻ căn cước có cao không, thưa ông?
- Thẻ căn cước hiện nay được chế tạo bằng công nghệ tiên tiến, bảo mật cao, bảo đảm chống lại việc làm giả thẻ. Trong chip điện tử trên thẻ căn cước có công nghệ xác thực thông qua đối sánh vân tay hoặc khuôn mặt nhằm xác thực chính xác chủ thẻ. Khi một người sử dụng thiết bị đọc thông tin lưu trữ trong chip điện tử phải được sự đồng ý của chủ thẻ thông qua phương thức xác thực vân tay, khuôn mặt để được quyền truy cập vào ứng dụng đọc, truy xuất dữ liệu. Nếu không có thao tác này thì không ai có thể truy cập để lấy thông tin trong thẻ căn cước.
Việc khai thác thông tin trong thẻ căn cước được phân cấp, phân quyền cụ thể, bảo đảm đối tượng khai thác chỉ được phép khai thác khi thực hiện trong chức năng, nhiệm vụ được giao và phải được người dân đó đồng ý thông qua việc xác thực bằng quét vân tay, khuôn mặt trên thiết bị hoặc qua ứng dụng VneID. Trường hợp người dân bị mất thẻ căn cước mà chưa có điều kiện thực hiện việc cấp lại thẻ thì có thể thực hiện việc khai thác, sử dụng thông tin tích hợp qua căn cước điện tử.
* Xin cảm ơn ông về cuộc trao đổi này!
TRIỆU VỸ-MẠNH QUÂN
(Thực hiện)