Sốc phản vệ - Triệu chứng, nguyên nhân và cách phòng tránh

Thứ Sáu, 09/04/2021, 18:56 [GMT+7]
In bài này
.

Sốc phản vệ (SPV) là biến chứng thường gặp trong điều trị y khoa với biểu hiện lâm sàng rất đa dạng, nhất là nhóm thuốc có tỷ lệ gây biến chứng cao. Dưới đây là những thông tin cần biết liên quan đến triệu chứng này.

Theo trang tin Mayoclinic (Mỹ), SPV là một tai biến dị ứng nguy hiểm, dễ gây tử vong nếu không được chẩn đoán và xử lý kịp thời. SPV là một phản ứng dị ứng nghiêm trọng nhất, xảy ra ngay sau khi tiếp xúc với tác nhân gây dị ứng, khoảng 30 phút sau khi bệnh nhân dùng thuốc, ăn thực phẩm nhiễm độc hay độc tố tương tự.

Các triệu chứng lâm sàng của SPV rất đa dạng. Nặng hay nhẹ tùy vào mức độ nhạy cảm của cơ thể mỗi người, số lượng và tốc độ hấp thụ các chất kháng nguyên hoặc chất lạ đi vào cơ thể. Những triệu chứng điển hình xảy ra sớm như hốt hoảng, bồn chồn, khó thở, nhịp tim đập nhanh, phù nề thanh khí quản, suy tim cấp, trụy mạch. Thời gian diễn biến của SPV thường kéo dài từ vài giây đến 30 phút, tốc độ sốc càng nhanh thì tiên lượng càng xấu.

Sốc nhẹ như lo lắng, sợ hãi, chóng mặt, đau đầu, buồn nôn, ho, khó thở, đau quặn vùng bụng, tê ngón tay, toàn thân mệt mỏi, đại tiện và tiểu tiện không kiểm soát được. Nếu trung bình thường có các biểu hiện như hoảng hốt, ngứa ran, choáng váng, khó thở, khắp người nổi mề đay, co giật hoặc hôn mê, chảy máu mũi, chảy máu dạ dày và ruột. Kèm theo đó là các triệu chứng như da tái nhợt, môi thâm, niêm mạc tím tái, đồng tử giãn, tim đập yếu, mạch nhanh nhỏ khó bắt và không đo được huyết áp. Ở thể nặng, có thể xảy ra trong những phút đầu tiên với tốc độ chớp nhoáng, khiến bệnh nhân bị hôn mê, da tím tái, ngạt thở, không đo được huyết áp và sau ít phút có thể tử vong, rất hiếm trường hợp kéo dài được vài giờ. Những diễn biến muộn xảy ra sau SPV cần lưu ý, bao gồm: viêm thận, viêm cơ tim dị ứng, viêm cầu thận. Những biến chứng này rất nguy hiểm cho tính mạng của người bệnh, có thể dẫn đến tử vong.

Nguyên nhân gây SPV rất đa dạng, chủ yếu là do thuốc theo mọi con đường đi vào cơ thể như tiêm bắp, tiêm tĩnh mạch, uống hoặc xông... Trong số này, đường tiêm tĩnh mạch là nguy hiểm nhất. Đặc biệt là các loại thuốc giãn cơ, chống viêm giảm đau, cản quang, gây tê, gây mê như thuốc ibuprofen, naproxen, aspirin; chất tương phản tĩnh mạch được sử dụng trong một số cận lâm sàng hình ảnh dùng tia X. Ngoài ra, còn phải kể đến thực phẩm, kể cả động vật lẫn thực vật, sữa, trứng, cá, chất phụ gia, côn trùng cắn v.v…

Chẩn đoán xác định theo thời gian sốc, triệu chứng, huyết áp bị tụt đột ngột... Chẩn đoán phân biệt với phình động mạch chủ, nhồi máu phổi, nhồi máu cơ tim cấp, tràn dịch màng ngoài tim gây ép tim cấp, sốc nhiễm khuẩn, sốc giảm thể tích do mất nước hoặc mất máu nặng... Chẩn đoán nguyên nhân có thể làm các test da và test trong da như RAST, ELISA, định lượng các kháng thể IgA, IgG kháng thuốc...

Điều trị SPV tùy thuộc vào mức độ nặng nhẹ, theo phác đồ bác sĩ như thuốc kháng sinh histamin và cortisone tiêm tĩnh mạch, giúp cải thiện khả năng thở và giảm viêm đường dẫn khí. Dùng epinephrine (adrenaline) giúp giảm các phản ứng dị ứng của cơ thể, thuốc đồng vận beta, chẳng hạn như albuterol có thể làm giảm các triệu chứng hô hấp, cho bệnh nhân thở oxy...

Nên duy trì lối sống tích cực, ăn  uống cân bằng khoa học, cố gắng tránh các tác nhân gây dị ứng... Có thể mang theo ống tiêm epinephrine tự động nếu bản thân có điều kiện hoặc prednisone, thuốc kháng histamine để đề phòng trường hợp nguy hiểm.

DS. NGỌC CHÂU

;
.