Những bệnh nhân nào có nguy cơ mắc hậu COVID-19?

Thứ Sáu, 18/03/2022, 18:27 [GMT+7]
In bài này
.

Các bệnh lý hậu COVID-19 đang là vấn đề được nhiều người quan tâm. Triệu chứng thế nào thì nên đi khám bác sĩ?... 

Sau đây là những chia sẻ của BSCKII. Trần Minh Thảo, Phó Trưởng khoa Khám bệnh theo yêu cầu (Bệnh viện Bạch Mai).

Tiêm vắc xin đầy đủ là cách ngăn ngừa hậu COVID-19 hiệu quả. Ảnh: HOÀNG HƯỜNG
Tiêm vắc xin đầy đủ là cách ngăn ngừa hậu COVID-19 hiệu quả. Ảnh: HOÀNG HƯỜNG

Nhiều bệnh nhân sau nhiễm COVID-19 mặc dù được xác định là khỏi bệnh nhưng các triệu chứng vẫn còn tồn tại dai dẳng, thậm chí xuất hiện các triệu chứng mới liên quan hậu COVID-19.

Các triệu chứng hay gặp sau nhiễm COVID-19 biểu hiện ở đa cơ quan, ngoài các triệu chứng hô hấp như: ho khan kéo dài, ho khạc đờm, đau họng, hụt hơi, khó thở, đau tức ngực thì người bệnh có thể có biểu hiện về tiêu hóa, gồm: buồn nôn, nôn, đau thượng vị, rối loạn tiêu hóa.

Về sức khỏe tâm thần có thể thấy mệt mỏi kéo dài, rối loạn giấc ngủ, mất ngủ, lo lắng, giảm tập trung, rối loạn cảm xúc; biểu hiện về thần kinh, gồm: đau đầu, chóng mặt, mất vị giác, khứu giác, giảm trí nhớ (sương mù não),…

Các nhóm triệu chứng bất thường theo chuyên khoa cần được thăm khám và đánh giá về mức độ, đồng thời cần loại trừ các nguyên nhân gây bệnh khác, trước khi kết luận thuộc hội chứng hậu COVID.

Những bệnh nhân có nguy cơ cao mắc hội chứng hậu COVID-19, bao gồm:

- Những người trên 60 tuổi, có các bệnh lý nền kèm theo như: bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, bệnh thận mạn tính, bệnh gan mạn tính, bệnh máu mạn tính, tăng huyết áp, đái tháo đường, hen, ung thư, suy giảm miễn dịch…,

- Những người bệnh có chỉ định liệu pháp oxy tại nhà, đặc biệt là nhóm người bệnh nặng phải hỗ trợ thở máy trong thời gian bị nhiễm COVID-19 và những người chưa tiêm đủ liều vắc xin phòng COVID-19 cơ bản.

Theo các bác sĩ, để dự phòng di chứng hậu COVID-19 thì việc đầu tiên quan trọng là: tiêm vắc xin để phòng nhiễm bệnh.

Thứ hai, khi không may nhiễm bệnh trở thành F0, người bệnh cần tuân thủ khai báo y tế tại địa phương để được quản lý và phân tầng với các mức độ từ không triệu chứng đến mức độ nhẹ, trung bình và nặng. Người bệnh theo dõi sức khỏe, nếu phát hiện bất cứ một trong các dấu hiệu như: khó thở, thở hụt hơi, hoặc ở trẻ em có dấu hiệu thở bất thường: thở rên, rút lõm lồng ngực, phập phồng cánh mũi, khò khè, thở rít; nhịp thở ở người lớn ≥ 20 lần/phút; SpO2 ≤ 96%; mạch nhanh > 120 nhịp/phút hoặc < 50 nhịp/phút; huyết áp thấp: huyết áp tối đa < 90mmHg, huyết áp tối thiểu < 60mmHg (nếu có thể đo); đau tức ngực thường xuyên, cảm giác bó thắt ngực, đau tăng khi hít sâu; thay đổi ý thức: lú lẫn, ngủ rũ, lơ mơ, rất mệt/mệt lả,… phải thông báo ngay với cơ sở quản lý người mắc COVID-19 tại nhà; trạm y tế xã, phường; hoặc trạm y tế lưu động, Trung tâm vận chuyển cấp cứu… để được xử trí cấp cứu và chuyển viện kịp thời.

Thứ ba, khi có bất kỳ bất thường nào về sức khỏe sau khi nhiễm COVID-19, người bệnh nên đến cơ sở y tế để thăm khám hoặc liên hệ nhân viên y tế để được hỗ trợ tư vấn, nhằm phát hiện sớm các di chứng, biến chứng, bệnh lý mắc phải để điều trị kịp thời, hiệu quả.

BSCKII. TRẦN MINH THẢO

;
.