Yêu như… ngày xưa, tại sao không?
Khi nói đến tình yêu và hôn nhân của người Việt thuở trước, người ta hay nhắc đến câu “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”.
Minh họa: MINH SƠN |
Ta thấy chuyện hệ trọng nhất đời người nhưng con cái chỉ đóng vai trò thụ động, chứ không có quyền quyết định lựa chọn theo ý mình. Đến với hôn nhân do phụ huynh sắp xếp có người cười hơn hớn như nông dân được mùa: “Cơm trắng ăn với chả chim/Chồng đẹp vợ đẹp những nhìn mà no”. Ngược lại, do cưới nhau theo ý ba mẹ nên cũng có kẻ thở ngắn than dài: “Người ta sang sông, em cũng sang sông/Người ta sang sông thành được vợ chồng/Em sang không rồi lại xách nón về không/Trước là thẹn thùng với bầu bạn, sau luống công ông chèo đò”.
Thật ra, quan niệm “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” chỉ phản ánh một phần của cái gọi là tôn ti trật tự trong xã hội ngày trước. Vì rằng, bên cạnh đó, vẫn có sự phản kháng, chống đối lại bất chấp, tỷ dụ như: “Dao phay kề cổ, máu đổ không màng/Chết thì chịu chết, buông nàng anh không buông”.
Lại nhớ đến trường hợp danh nhân Đặng Huy Trứ, dù cửa nhà gia giáo, có của ăn của để nhưng lại yêu cô lái đò ít học, nhà nghèo. Cha mẹ phản đối nhưng ông vẫn vượt qua ngăn cản đó, lén cưới. Biết chuyện, cha mẹ bắt buộc phải viết giấy ly hôn, ông ngẫm nghĩ: “Con trái lời cha mẹ mang tội bất hiếu. Nhưng lấy con gái người ta rồi tìm cách bỏ, tội bất nhân cũng chẳng nhỏ. Hơn nữa, người con gái ấy có ơn lớn với ta lại không phạm một lỗi nào trong “thất xuất” thế mà bỏ sợ rằng mắc điều oan nghiệt”. Suy nghĩ chín chắn như thế nên ông vẫn đoàn tụ với vợ và chung sống hạnh phúc.
Đây chỉ là một trong nhiều thí dụ cho thấy có trường hợp tự chọn người “đầu ấp tay gối” theo mách bảo của trái tim, chứ nào phải theo sắp xếp của ba mẹ.
Ở đây, tôi không bàn đến sự lựa chọn này, tích cực hay tiêu cực, cần chấn chỉnh hay phát huy? Chỉ muốn nhấn mạnh rằng đâu là “mẫu số chung” của người xưa khi đến với đời sống hôn nhân của chính mình. Câu trả lời này thế nào nhỉ?
Sực nhớ ngày xưa khi ở Huế, cụ Phan Châu Trinh cũng đã từng “say nắng” một giai nhân lá ngọc cành vàng, đôi bên xướng họa thơ cùng nhau ra chiều rất tâm đắc. Như nhiều đấng mày râu khác, cụ cũng muốn lập “phòng nhì” cho thỏa lòng nhưng rồi bao nhiêu hăm hở, náo nức dự tính này bỗng tắt ngúm. Ngày kia, cụ từ kinh đô về Quảng Nam, lúc đến nhà đã thấy vợ xắn váy quai cồng, chân thấp chân cao, tất ta tất tưởi cơm nước chạy ra đồng lo cho bọn thợ gặt. Hình ảnh chịu thương chịu khó ấy đã khiến cụ Phan suy nghĩ: “Vợ mình lam lũ làm ăn nuôi con nuôi chồng; còn người đẹp kia lại khác, mưa không ướt tóc, nắng không đến đầu, nhất cử nhất động đều có kẻ hầu người hạ, vậy “đem về cô ấy về, mình đặt ở đâu?”. Thế là cụ có sự chọn lựa khác.
Rồi một khi đã chung sống với nhau, không vì lý do gì đó mà họ ruồng rẫy, bỏ vợ. Ta nhớ đến trường hợp nhạc sĩ Cao Văn Lầu, do chậm sinh con, ba mẹ ông bắt phải bỏ vợ để chắp nối tơ duyên với người khác, có như thế, ngày sau mới có con “nối dõi tông đường”. Thế nhưng ông bất tuân lệnh, mọi suy ngẫm về tình chồng nghĩa vợ trong trường hợp của mình sao mà éo le, do đó, ông mới thổ lộ qua tác phẩm bất hủ Dạ cổ hoài lang (Đêm khuya nghe tiếng trống nhớ chồng) - về sau trở thành bài “Vọng cổ” thông dụng nhất trong giới cải lương, bản nhạc vua của sân khấu ca kịch.
Tâm lý chung của phụ nữ Việt ngày trước, một khi đã có chồng thì tình yêu ấy thể hiện qua tâm thế: “Có chồng thì phải theo chồng/Chồng đi hang rắn, hang rồng cũng theo/Có chồng thì phải theo chồng/Đắng cay cũng chịu, mặn nồng cũng vui”. Thế nhưng họ chỉ đứng phía sau, lặng lẽ lo toan gánh vác việc cửa việc nhà. Nhưng xin thưa, đừng tưởng là họ không quan tâm đến hoài bão, sự nghiệp của chồng.
Ca dao có câu: “Chồng giận thì vợ làm lành/Miệng cười chúm chím: thưa anh giận gì?/Thưa anh, anh giận em chi?/Muốn lấy vợ bé em thì lấy cho”. Không phải là nói xuôi xị. Nói cho vui. Thật đấy. Chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng do không có con trai để nối dõi, nên 2 năm sau, bà cả đã đứng ra cưới thứ thất cho cụ. Sự hy sinh này đáng để chúng ta suy ngẫm đấy chứ?
Phải nói thật, khi tìm hiểu về tình yêu hôn nhân của người xưa, tôi nhận ra rằng, họ đã yêu và đã sống trọn vẹn với vợ/chồng, không có lọc lừa, phản trắc mà ở đó là sự quên mình vì sự nghiệp của người mà mình đang yêu. Từ đó, bài học rút ra, theo tôi đó là sự thủy chung - thời nào cũng có, thời nào cũng cần và không bao giờ lỗi thời.
LÊ MINH QUỐC