Với nhiều ưu điểm vượt trội so với mổ mở như ít gây tổn thương, ít mất máu, nội soi tán sỏi thận qua da là phương pháp được ưu tiên lựa chọn hiện nay trên thế giới trong phẫu thuật điều trị sỏi thận. Bên cạnh những lợi ích, phương pháp này vẫn có tỷ lệ nhỏ nguy cơ nhiễm khuẩn, chảy máu, tổn thương cơ quan lân cận, thậm chí tử vong mà người bệnh nên biết.
Một ca phẫu thuật tán sỏi thận qua da cho trẻ em tại Bệnh viện Bình Dân. |
Theo một thống kê y học, tỷ lệ mắc sỏi tiết niệu ở Việt Nam từ 2-12%, trong đó sỏi thận chiếm đa số (lên đến 40%). Tỷ lệ mắc bệnh phụ thuộc vào các yếu tố như địa lý, khí hậu, chủng tộc, chế độ ăn uống và di truyền. Khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, thói quen ít uống nước của nhiều người góp phần làm tăng tỷ lệ sỏi đường tiết niệu tại Việt Nam. Các khảo sát cho thấy nước ta nằm trong vùng có tỉ lệ mắc bệnh sỏi tiết niệu cao gọi là “Vùng sỏi thế giới”.
Sẹo sau phẫu thuật mổ mở |
Nội soi tán sỏi qua da cho tỷ lệ lấy sạch sỏi cao, ít gây tổn thương
Hiện nay, các hướng dẫn mới nhất về điều trị sỏi thận từ các Hội Tiết niệu Hoa Kỳ, Hội Tiết niệu châu Âu không còn đề cập đến vai trò của mổ mở vì phương pháp này gây nhiều tổn thương trên người bệnh, thay vào đó là phương pháp tán sỏi thận qua da (PCNL-Percutaneous nephrolithotomy) với những ưu điểm như ít xâm lấn, an toàn và hiệu quả cao. Các kỹ thuật PCNL đã phát triển và cải tiến ngày một linh hoạt và tinh vi hơn, đường tiếp cận nhỏ chỉ khoảng 0.5cm, cho phép thực hiện cả trên các bệnh nhi.
Tán sỏi thận qua da cho tỉ lệ sạch sỏi lên đến 90%, tùy mức độ kinh nghiệm của bác sĩ phẫu thuật, đặc tính của sỏi và thiết bị được sử dụng trong quy trình. So sánh về tính an toàn và biến chứng của tán sỏi thận qua da và mổ mở lấy sỏi thận, cho thấy nếu tính về tỉ lệ sạch sỏi cuối cùng thì không có sự khác biệt giữa 2 kỹ thuật mổ này. Bù lại, lấy sỏi qua da có tỉ lệ biến chứng thấp hơn mổ mở, lượng máu mất ít hơn, ít phải truyền máu hơn.
Vết mổ sau phẫu thuật tán sỏi qua da. |
Khi mổ mở: Người bệnh sẽ phải chịu một đường mổ dài khoảng 15cm ở vùng hông lưng. Vết mổ cắt đứt cơ vùng hông lưng, tổn thương thần kinh, xương sườn số 12 và mô xung quanh thận. Trong mổ mở, các bác sĩ phẫu thuật dùng dao điện để cắt đốt các lớp cân, cơ, dùng dao để xẻ bể thận, chủ mô thận để lấy sỏi. Người bệnh sau mổ đau nhiều, lâu hồi phục. Trong một nghiên cứu được báo cáo năm 2009, tác giả Siavash ghi nhận thời gian nằm viện ở người được lấy sỏi thận qua da (PCNL) là 3,39 ngày, so với nhóm mổ mở là 5,08 ngày.Trong phẫu thuật tán sỏi thận qua da, bác sĩ tạo ra một đường hầm tiếp cận viên sỏi từ ngoài da tại vùng hông lưng. Đường hầm có kích thước khoảng 1cm nên vết rạch da rất nhỏ, bác sĩ sẽ đưa thiết bị vào qua đường hầm này để tán vỡ vụn sỏi và lấy các mảnh nhỏ ra ngoài. Người bệnh vừa ít bị tổn thương, lại bảo đảm được vấn đề thẩm mỹ vì gần như không để lại sẹo.
Ngoài ra, sau phẫu thuật, vùng quanh thận nơi bị mổ sẽ hình thành mô xơ dính. Do đó, nếu người bệnh có sỏi tái phát thì việc tiến hành phẫu thuật trong những lần sau khó khăn, tăng nguy cơ tổn thương như chảy máu, nhiễm trùng, phạm vào ruột, thoát vị vết mổ…
Tán sỏi thận qua da: Ưu điểm so với mổ mở là người bệnh được điều trị ít xâm hại, bảo tồn chức năng thận, phục hồi nhanh sau mổ và thời gian nằm viện ngắn. Về mặt chỉ định, phương pháp này có thể áp dụng cho cả các trường hợp sỏi lớn hoặc thất bại với điều trị nội khoa hoặc tán sỏi ngoài cơ thể.
Đặc biệt, đối với các trường hợp điều trị sỏi thận tái phát thì lấy sỏi qua da cho thấy ưu thế hơn hẳn. Kỹ thuật tạo đường hầm trực tiếp đến sỏi sẽ giúp giảm thiểu cảm giác đau do vết mổ ở các lần can thiệp sỏi tiếp theo. Điều này mang lại nhiều lợi ích cho người bệnh.
Vẫn có các nguy cơ
Tuy có nhiều ưu điểm vượt trội so với mổ mở, tán sỏi qua da vẫn có một số biến chứng sau mổ như sốt, chảy máu, biến chứng liên quan lồng ngực: Tràn khí, tràn máu, tổn thương phổi, nhiễm trùng huyết, tổn thương nội tạng; thuyên tắc mạch; rò nước tiểu, thậm chí có tử vong.
Trong phiên bản mới nhất (2020), sách Campbell-Walsh-Wein Urology, được xem là sách giáo khoa “gối đầu giường” của các bác sĩ chuyên ngành Tiết niệu trên toàn thế giới nêu rõ: “Ngay cả đối với bác sĩ tiết niệu có kinh nghiệm nhất, các biến chứng có thể xảy ra sau phẫu thuật tán sỏi thận qua da, với các biến chứng lớn lên đến 7% và các biến chứng nhỏ có thể đến 25%”. Tuy nhiên, tất cả những biến chứng này đều có tỉ lệ thấp hơn mổ mở”.
PGS.TS.BS Vũ Lê Chuyên cho biết thêm: Chảy máu là một biến chứng đáng kể sau tán sỏi thận qua da, vì thận là một cơ quan chứa nhiều máu. Nguyên nhân do rò động mạch hoặc giả phình mạch. Không hiếm các trường hợp chảy máu nặng phải truyền máu, thậm chí cắt thận hoặc tử vong. Nhiễm khuẩn huyết cũng là một biến chứng cần lưu ý sau phẫu thuật. Nếu tình trạng đáp ứng kháng sinh kém, người bệnh có nguy cơ tử vong. Thậm chí biến chứng nhiễm khuẩn huyết vẫn xuất hiện ở một số trường hợp có xét nghiệm nước tiểu sạch trước mổ. Lý do được giải thích là vì nước tiểu bị nhiễm khuẩn trên chỗ bế tắc và lượng vi khuẩn bám trên bề mặt sỏi bị phát tán ra ngoài lúc tán sỏi.
Tóm lại, tán sỏi thận qua da hiện được xem là tiêu chuẩn vàng trong điều trị sỏi thận lớn hoặc phức tạp với các ưu điểm như ít xâm hại, ít tai biến, bảo tồn chức năng thận, thời gian hồi phục hậu phẫu nhanh. Bên cạnh đó, cũng như các phương pháp ngoại khoa khác, tán sỏi thận qua da vẫn tồn tại một tỷ lệ nhỏ những biến chứng như chảy máu, nhiễm khuẩn huyết, tổn thương cơ quan lân cận, thậm chí tử vong. Trong đó, có những biến chứng nằm ngoài khả năng kiểm soát của bác sĩ mà người bệnh cần được tư vấn và hiểu rõ trước khi lựa chọn phương pháp tán sỏi thận qua da.
TRẦN NHUNG