Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) vừa tổ chức mừng thượng thọ cựu Tổng giám đốc nhà báo, nhà văn Phan Quang 90 tuổi, giới thiệu tuyển tập “Phan Quang 90 tuổi đời - 70 tuổi nghề”. Cây đại thụ, nhà báo, nhà văn Phan Quang, sinh ra và lớn lên tại làng Thượng Xá, xã Hải Thượng, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Tuổi cao, nhưng Phan Quang vẫn say mê “Đọc, đi, nghĩ, viết”, như ông thường nói. Tháng 5.2018, từ thủ đô Hà Nội “lão tướng” Phan Quang đã có cuộc hồi hương, trở lại quê nhà Quảng Trị nơi bến sông Nhùng & dòng Thạch Hãn đầy ắp cảm xúc và kỷ niệm cuộc đời.
Nhà báo Phan Quang cùng chị gái 96 tuổi ở quê nhà Quảng Trị. |
Thành phố Huế cách tỉnh lỵ Quảng Trị hơn một giờ xe hơi. 9 giờ sáng ngày 12.5, chúng tôi đến huyện Hải Lăng. Bầu trời miền Trung trong xanh không một gợn mây, nắng chói chang, vừa sáng sớm, nhiệt độ ngoài trời đã 35, 36 độ C. Phan Quang đề nghị chúng tôi ghé thăm nghĩa trang gia tộc thắp hương cho ông bà nội ngoại, cho thân phụ và thân mậu, tưởng niệm bà con trong dòng tộc. Điều mà chúng tôi rất cảm phục, đó là trí nhớ tuyệt vời của ông. Phan Quang rời làng Thượng Xá, xã Hải Thượng đi theo kháng chiến từ năm 1947 – 1948, lần nào ông trở về quê cũng ngập tràn cảm xúc, nhớ về quá khứ không sót một chi tiết nhỏ nào.
Thời điểm Phan Quang lên căn cứ, quân Pháp từ Huế tràn ra Quảng Trị. Cả làng Thượng Xá tản cư lên Nà Tiên, thân mậu Phan Quang là cụ Văn Thị Thiện lâm bệnh rồi qua đời trong năm tản cư 1947. Thân Phụ là cụ Phan Thanh Tấn một mình vò võ bươn chải chèo chống dòng đời giữa bao gian khó, hiểm nguy, chỉ còn 6 tháng nữa là miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, non sông liền một giải thì thân phụ qua đời tại Tp. Đà Nẵng, trên tay bà chị gái và mấy đứa cháu ngoại. Sau này, các con cháu mới có điều kiện đưa phần mộ của cụ về Hải Thượng quê nhà. Ông vừa nói, vừa lấy khăn lau dòng lệ trộn với những giọt mồ hôi chảy dài trên má, giữa cái nắng gay gắt trưa hè Quảng Trị. Ông tâm tình với chúng tôi, thế hệ làm báo lớp sau, câu chuyện bị ngắt quãng, bởi dòng cảm xúc dâng trào, chặn lại:
- Mẹ tôi mất sớm từ năm 1947, do lâm bệnh ở vùng núi thiêng nước độc Nà Tiên dưới chân núi Trường Sơn. Gặp lúc mẹ tôi đang đau nặng, cha tôi, các chị gái, ông anh rể mặt buồn rười rượi. Và ai cũng không dấu được thoáng mừng khi nhìn thấy bóng tôi, thằng con trai út ít duy nhất trong nhà từ con đường mòn ven sông trên căn cứ đi về đang trèo lên dốc. “Bà thiêng lắm, bà chờ cậu về bà mới chịu đi đó” – ông anh rể thì thầm vào tai tôi sau khi lễ táng cho mẹ xong, mọi người vác cuốc về nhà, tôi ôm bát hương trong tay. Chỉ mới đêm trước đó, tiết trời sương giáng giữa chốn rừng xanh, khói mây mù mịt, mưa bụi lai rai. Tôi cúi mặt xuống sát giường, để nghe cho rõ lời mẹ tôi thì thào: “Mạ chết … con … cho mạ … cái áo … Độc lập … đưa mạ … về làng”…
Phan Quang đứng đó lặng thầm,mắt rướm lệ. Ông vừa đốt nén hương trầm, ông không nói với chúng tôi nữa mà giọng thì thầm, như nói với cha, với mẹ:
- Con xa quê, chia tay cha kính yêu sau ngày mạ (mẹ) qua đời rồi biền biệt đi kháng chiến. Hải Thượng chìm ngập trong bom đạn, với những trận càn đẫm máu. Nghĩa trang liệt sĩ của xã nằm đó, ngay đây thôi với gần 2.000 ngôi mộ khói hương nghi ngút mỗi ngày. Trước ngày tiếp quản Hà Nội, tháng 10 năm 1954, con được cấp trên điều động về thủ đô Hà Nội làm phóng viên Báo Nhân Dân trụ sở bên bờ Hồ Gươm, cha ở lại bên kia giới tuyến tạm thời, dòng sông Bến Hải đẫm máu và nước mắt người thân. Đến khi Mỹ sắp cút, ngụy sắp nhào, con đau đáu từng giờ, từng ngày mong sớm được về Nam gặp cha, thì cha lại ra đi sớm hơn từ nơi chạy giặc ở Đà Nẵng, trước thềm mùa Xuân năm 1975. Mạ ơi, sau ngày quê hương sạch bóng quân thù, chúng con đã đưa cha từ dặm cát bên biển Đà Nẵng về đây cùng mạ, cùng ông bà … mạ ơi … cha ơi …
Giọng nói nhỏ xúc động của Phan Quang trên khu nghĩa trang, mỗi chúng tôi đi bên ông khi mái tóc công đã bạc trắng, tuổi cửu thập, buổi trưa hè cũng nghẹn lời, đôi mắt ai cũng nhòa lệ nhìn vào khoảng trống xa xăm … Mỗi phần mộ trong dòng tộc là một câu chuyện dài. Phan Quang nhớ rành rọt, kể cho chúng tôi nghe về từng người ruột thịt, không thiếu ai. Ví như khi đến phần mộ cụ Lâm Thị Định, bà ngoại Tướng Cao Văn Khánh, phó tổng tham mưu trưởng quân đôi nhân dân Việt Nam, hai anh em con cô – cậu ruột với nhà báo Phan Quang. Ông hỏi chúng tôi đã đọc cuốn hồi ký lịch sử “Tường Cao Văn Khánh” vừa xuất bản đầu năm 2018 chưa? Và ông kể cho chúng tôi bao chuyện buồn vui, cả những bi kịch về vị tướng trí thức một lòng một dạ đi theo cách mạng, tài đức vẹn toàn, khi về với thế giới người hiền do lâm bệnh hiểm nghèo. Vợ ông – một trí thức tên tuổi dòng dõi hoàng tộc đã cùng ông đi hết hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Thế mới biết sức nhớ, sức đọc phi thường, sự thông tuệ thời cuộc - thế sự của chính khách Phan Quang, cây đại thụ báo chí nước nhà.
Sự thông tuệ, minh mẫn, giàu cảm xúc từ con tim Phan Quang chưa hết. Trên khu vườn cũ, nơi ông cất tiếng khóc chào đời, ngần ấy thời gian, nay đã nhiều đổi thay. Nhưng Phan Quang không quên bất cứ điều gì, tất cả đã như khắc cốt ghi tâm. Đi bên cạnh chúng tôi, ông nói, như tâm tình với chính mình:
- Đây là lối rẽ ra bến sông Nhùng, phía sau nhà. Tuổi thơ, mỗi ngày 3 cữ lũ trẻ chúng tôi ào ra bến sông bơi ngang, bơi dọc săn đuổi chim, vui lắm. Chúng bạn ngày ấy nay chỉ còn lại duy nhất thằng cu Diêu (tên khai sinh của ông) bơi nhanh như con ráy cá. Kia là khu nhà mà đức vua Hàm Nghi trên đường ra Bắc hạ chiếu Cần vương chống quân xâm lược Pháp đã ngủ lại qua đêm, nhờ cái lộc Ngự Sử của ông nội Phan Thanh Tân. Đằng kia nữa là quán bà Thập Dụ, nơi buộc hai con voi của đức vua Hàm Nghi …
Nhà báo Phan Quang cùng tác giả bài viết bên bốt cầu Nhùng (xã Hải Thượng, Hải Lăng, Quảng Trị) |
Làng Thượng Xá – Hải Thượng nằm sát ngay bên Thành Cổ Quảng Trị. Mỗi góc vườn, góc sân, đoạn đường, bến sông, chiếc cầu, cái lô cốt vùng quê anh hùng, son sắt một dạ với cách mạng như sống dậy, đung đưa, nhảy múa trước đôi mắt tinh tường, sự minh mẫn đến lạ của “lão tướng” Phan Quang. Tất cả như một bộ phim có nhạc, có họa lung linh tỏa sáng, trở về bao kỷ niệm tuổi thơ. Có lúc Phan Quang hồ hỡi, hoạt bát hẳn lên, nhưng có thời điểm ông đứng im, không nhúc nhích, như một pho tượng sống. Đó là khi mà ông đang nghĩ suy, đang sống lại với những kỷ niệm cuộc đời, về thời cuộc và nhân tình thế thái. Rồi ông cùng chúng tôi đội nắng về thăm nhà thờ Phái, nhà thờ Họ, thăm cây bồ đề ông đưa từ Đà Nẵng về trồng trong sân từ đường họ Phan, nay đã bén rễ xanh tốt. Cây bồ đề góc trái sân từ đường do Phan Quang trồng; cây bồ đề góc phải sân do gia đình ông Phan Giá - người anh con bác ruột trồng, rung rinh trước gió như lời hẹn ước, họ Phan làng Thượng Xá, dù đi đâu, về đâu, làm bất cứ công việc gì vẫn một dạ hướng về cội nguồn, sống hiếu nghĩa, luôn xứng đáng với tổ tiên, quê hương, đất nước.
Chiếc xe 4 chỗ đưa chúng tôi đi dọc đại lộ “Kinh hoàng”, phía Nam sông sông Thạch Hãn. Hàng trăm bà con vùng Hải Lăng, Triệu Phong đã ngã xuống bởi bom đạn, pháo dập từ cả hai phía địch và ta, khi Thành Cổ Quảng Trị thất thủ trong chiến dịch xuân hè năm 1972 của bộ đội giải phóng. Và đây là con đường Thiên lí, con đường mà đức vua Hàm Nghi đã hành quân ra miền Trung hạ chiếu Cần vương đánh Pháp. Đây cũng con đường “Không vui” mà bọn giăc Pháp, giặc Mỹ vẫn thường nói, báo chí – văn học nước Pháp, nước Mỹ đã miêu tả không biết bao nhiêu trang giấy, bởi trên con đường này đã có hàng trăm tên lính xâm lược bỏ mạng trước họng súng quân du kích và bộ dội giải phóng. Đây nữa, đoạn đường này, bà con làng Thượng Xá đã trải chiếu hoa – thường để trải nơi trang trọng, trong sân đình ngày lễ hội đón vua quan, các lão làng – để cho bộ đội giải phóng từ các bưng bùn, đường đất lầy lội hành quân vượt lộ, tiện xóa dấu vết khi quân địch tổ chức truy quét. Ông dẫn chúng tôi thăm cầu Nhùng, lô cốt Nhùng, về bến sông Nhùng sau vườn nhà, nơi tuổi thơ ông vẫn cùng chúng bạn bơi lội, tắm mát và đứng trên bờ hò reo cổ vũ các hội đua thuyền hằng năm vào ngày mùng 2 tết nguyên đán…
Chúng tôi đã nhiều lần cùng đi với nhà báo, nhà văn Phan Quang, làm việc dưới quyền ông. Nhưng quả thật, chúng tôi vẫn chưa hiểu hết nỗi lòng, những tâm sự ẩn khuất từ trái tim - trong sâu thẳm cõi lòng một nhà báo già đáng kính. Chính khách, nhà văn hóa tầm cỡ, uyên bác Phan Quang đã sinh ra - lớn lên, rồi ra đi và trở về quê Mẹ khi tuổi ông đã vào mùa đông cuộc đời, giữa trưa hè lộng gió, nắng gắt hôm nay. Có cái gì đó rất nghẹn lời từ ông truyền sang cho chúng tôi, khi kết nối sự kiện lịch sử “Mùa hè đỏ lửa” năm 1972 bên Thành Cổ, trên dòng Thạch Hãn, hàng vạn chiến sĩ, đồng bào đã anh dũng ngã xuống và mùa hè 2018 hôm nay, khi chúng tôi lại về đây với bến sông Nhùng, bến sông Thạch Hãn và bên Thành Cổ anh hùng, uy nghi - tráng lệ…
Giọt nước mắt long lanh thấm đẫm nơi khóe mắt, càng làm cho chính khách, nhà báo, nhà văn, nhà văn hóa, nguyên Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam Phan Quang thêm rạng rỡ, tâm trí ông càng thêm rạng ngời.
Ghi chép : PHẠM QUỐC TOÀN
Còn ắp sức xuân Nguyễn Hồng Vinh Kính tặng Nhà báo, nhà văn Phan Quang vào tuổi 90 Trước mặt tôi , Hàng ngàn trang sách Chắt ra từ vạn vạn trang đời Của chín mươi năm cuộc người 70 năm đời bút!
Có những từ Như một bông hoa lạ Có những trang làm ta ứa lệ Cồn cào thương nhớ đầy vơi…
Đất quê anh đá sỏi Nắng lửa rèn nung Đồi sim không đủ quả([1]) Cùng rau, cháo cầm hơi!
Anh qua khu 4, khu 3, rồi Việt Bắc Cùng dân tộc đồng hành thời kháng Pháp Nghề văn, nghiệp báo đâu ngờ Gắn cuộc đời ta từ đó!
Non sông liền giải Từ Lạng Sơn đến Cà Mau đất Mũi Những trang phóng sự Thổi mát lòng người Sinh nở mùa vàng tươi mới!
Thế giới có Việt Nam Qua trang viết PHAN QUANG Ta tiếp nhận tinh hoa nhân loại Qua dịch thuật PHAN QUANG Người tiếp lửa nhịp cầu Hữu nghị!
Vượt xa “Cổ lai hi” Cửu thập niên trường Trí tuệ dồi dào Tuôn trào bút lực Tằm nhả tơ Sáng óng từng con chữ! Ấm nóng Tình đời, Tình bạn… [1] Ý thơ Chế Lan Viên |