.

Những phát minh sử dụng hằng ngày đến từ các trường đại học

Cập nhật: 16:06, 21/05/2019 (GMT+7)

Dây an toàn xuất hiện trên mọi chiếc ôtô vào ngày nay là sản phẩm sáng tạo của Roger Griswold và Hugh DeHaven ở Cơ sở nghiên cứu về An toàn hàng không thuộc Đại học Cornell, New York. Sáng tạo này được hoàn thiện bởi hãng xe Volvo và trở thành một thứ bắt buộc phải có trên xe hơi ngày nay.

Nhà toán học J. Ernest Wilkins người Mỹ là người đầu tiên đề cập đến hạt nhân và muốn biến nguồn năng lượng này thành điện năng.
Nhà toán học J. Ernest Wilkins người Mỹ là người đầu tiên đề cập đến hạt nhân và muốn biến nguồn năng lượng này thành điện năng.

Kem đánh răng chứa fluor thật ra không được phát minh tại trường đại học, nhưng nó được quy chuẩn và nâng cấp tại đây. Từ thập niên 1890, ý tưởng về kem đánh răng chứa fluor đã được xuất hiện, nhưng mãi đến sau này khi Tiến sĩ Joseph Muhler tại Đại học Indiana đưa ra bộ quy chuẩn và được FDA chấp thuận, loại kem đánh răng này mới được sản xuất đại trà và sử dụng rộng rãi như ngày nay.

Mỗi khi bật điện thoại để định vị và tìm đường trên bản đồ, là bạn đã sử dụng GPS được phát minh bởi nhà vật lý Ivan Getting lúc ông làm việc tại MIT. Bắt đầu từ những ý tưởng ban đầu về radar trong thế chiến thứ hai, Getting đã dần phát triển lên thành hệ thống định vị toàn cầu như ngày nay.

Google – gã khổng lồ trong làng công nghệ, là sản phẩm nghiên cứu của hai sinh viên Sergei Brin và Larry Page khi họ bảo vệ đồ án tiến sĩ tại Đại học Stanford. Sản phẩm này thành công đến nỗi họ phải tạm ngừng việc học và chuyển hẳn sang con đường kinh doanh.

Tiến sĩ Murray E. Jarvik và nhóm nghiên cứu của ông đã sáng tạo ra miếng dán nicotine tại Đại học California vào năm 1991 và giờ đây nó trở thành một sản phẩm y tế không thể thiếu, nhất là đối với các vận động viên hay những người thường xuyên phải vận động mạnh.

Sự ra đời của vô tuyến truyền hình hay TV gắn liền với hoạt động nghiên cứu của sinh viên Paul Gottlieb Nipkow người Đức tại đại học. Năm 1884, Nipkow đã tạo ra nguyên bản của TV ngày nay và được cấp bằng sáng chế cho sản phẩm này. Mãi đến hàng thập niên sau TV mới được thương mại hóa nhờ sự đóng góp của nhiều kỹ sư khác.

Internet đóng vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống hiện đại ngày nay. Internet ban đầu cũng chỉ là một nghiên cứu được thực hiện tại môi trường đại học nhưng chính nó đã giúp tạo nên vô số những nghiên cứu khác.

Đáng chú ý nhất là Tim Berners-Lee, người đã phát minh ra hệ thống Web vào năm 1989 trong phòng thí nghiệm về vật lý hạt. Công nghệ này cập bến MIT để phát triển thành World Wide Web như chúng ta đang sử dụng ngày nay. Nhóm nghiên cứu tại MIT đã giúp WWW phát triển rộng rãi bằng cách tạo ra những thiết bị đầu-cuối và các bộ quy chuẩn. Có một thực tế phũ phàng rằng Berners-Lee chưa bao giờ được đứng tên ở bằng sáng chế về sáng tạo của mình.

Trước khi có những chiếc máy vi tính hiện đại vào thế kỷ 21, thiết bị này đã trải qua quá trình thai nghén và sinh trưởng trong môi trường đại học. Nguyên bản của máy tính được phát triển bởi Alan Turing là một sản phẩm nghiên cứu tại Đại học Cambridge. Năm 1946, John Mauchly và J. Presper Eckert đã phát triển máy tính đa chức năng đầu tiên tại Đại học Pennsylvania. Từ đó đến nay, những nâng cấp và tính năng mới của máy tính đã được thực hiện liên tục tại các trường đại học.

Màn hình cảm ứng đầu tiên là một phần của dự án máy tính PLATO tại Đại học Illinois Urbana-Champaign vào năm 1964. Donald Bitzer là nhà nghiên cứu trưởng của dự án này, dự án PLATO vẫn còn được tập trung phát triển mãi cho đến năm 2006.

Năng lượng Mặt Trời được hứa hẹn sẽ trở thành nguồn năng lượng sạch thay thế cho nhiên liệu hóa thạch vốn đã gần cạn kiệt và gây hại cho môi trường của hành tinh, là một sản phẩm được tiên phong ứng dụng bởi MIT. Ngôi nhà đầu tiên chạy điện Mặt Trời là Solar 1, được xây dựng trong chính khuôn viên trường vào năm 1939. Lúc bấy giờ, công nghệ «tóm lấy tia sáng Mặt Trời để chuyển thành điện» là hoàn toàn xa lạ, mãi đến hàng chục năm sau người ta mới ứng dụng nó rộng rãi và trở thành một nguồn năng lượng sạch đầy triển vọng.

Tiến sĩ Charles Draper đã thay đổi ngành hàng không bằng phát minh hộp đen của mình được ông sáng tạo tại MIT. Chỉ với một chiếc hộp nhỏ, thiết bị này đặt mọi thứ cần thiết để bay và ghi lại mọi hoạt động diễn ra trên chuyến bay. Hệ thống dẫn đường này không chỉ giúp thay đổi hành trình trên không một cách dễ dàng và chính xác, mà còn dẫn lối được cho tên lửa và tạo tiền đề cho các sứ mệnh không gian Apollo của NASA sau này.

Điện hạt nhân mang sứ mệnh thay đổi bộ mặt ngành năng lượng, tuy nhiên còn tồn tại nhiều rủi ro liên quan đến an toàn và các vấn đề về quân sự. Nhà toán học J. Ernest Wilkins người Mỹ là người đầu tiên đề cập đến hạt nhân một cách nghiêm túc và biến nguồn năng lượng này thành điện năng sử dụng được khi ông công tác tại Đại học Chicago. Trong đồ án nghiên cứu của mình, ông đã vẽ ra bản thiết kế và phát triển một lò phản ứng hạt nhân và thậm chí đã thành lập công ty điện lực riêng sử dụng hạt nhân.

Vaccine bại liệt là một vị cứu tinh khi bệnh bại liệt ảnh hưởng đến gần như một thế hệ trẻ nhỏ vào giữa thế kỷ 20. Năm 1955 tại Đại học Y khoa Pittsburgh, nhà nghiên cứu Jonas Salk đã làm thay đổi hoàn toàn tình hình bằng cách phát triển vaccine chống bại liệt đầu tiên. Salk từ chối đăng ký bằng sáng chế và để phát minh của mình được sử dụng miễn phí, vì như vậy mới có thể sản xuất đại trà nhằm giảm thiểu và loại trừ hoàn toàn căn bệnh này.

Tiến sĩ Charles Drew đã phát triển kỹ thuật tách các tế bào hồng cầu và huyết tương tại Đại học Columbia để phát triển thành công kỹ thuật bảo quản máu, một thành tựu giúp máu được trữ và cấp cho quân nhân bị thương trong suốt thế chiến thứ hai, cũng như giúp người bệnh được cấp máu kịp thời trong thời bình ngày nay.

Kỹ thuật phẫu thuật tim hở được phát triển bởi Tiến sĩ Wilfred G. Bigelow tại Đại học Toronto, ông cho biết rằng phẫu thuật tim tốt nhất khi tim không có máu và bất động. Nghiên cứu này đã được ứng dụng thực tế thành công vào năm 1952, tại Đại học Minnesota, bởi Tiến sĩ C. Walton Lillehei và Tiến sĩ F. John Lewis.

Năm 1952, các bác sĩ ở Bệnh viện Đại học Harper thuộc Đại học Wayne đã tạo nên lịch sử khi lần đầu tiên ghép một trái tim nhân tạo vào cơ thể người. Năm 1980, công nghệ này tiến xa thêm một bước nữa khi Tiến sĩ Robert Jarvik thực hiện cấy ghép một trái tim nhân tạo vĩnh viễn vào cơ thể người ở Đại học Utah.

Nghiên cứu đầu tiên về Tia X được thực hiện bởi Ludwig Zehnder, một sinh viên tại Đại học Freiburg. Ông đã cho ra những hình ảnh chụp xương người đầu tiên bằng cách chiếu tia X xuyên qua cơ thể người.

Đường hoá học Saccharin là chất tạo ngọt nhân tạo được tạo ra bởi Constatin Fahlberg khi ông là nghiên cứu sinh tại Đại học Johns Hopkins. Lúc này, Fahlberg khám phá ra một phân tử saccharin bị cô lập nên đã phát minh ra hợp chất này. Chất tạo ngọt nhân tạo Cyclamate cũng được tạo ra bởi sinh viên Michael Sveda của Đại học Illinois.

Máy phát hiện nói dối vẫn được cảnh sát sử dụng đến tận ngày nay, là sáng tạo của Tiến sĩ John A. Larson khi ông nghiên cứu tại Đại học California vào năm 1921.

XUÂN NGUYỄN (Tổng hợp)

.
.
.