KHI NGÂN HÀNG NGOẠI TIẾN ĐẾN ĐỐI TÁC NỘI

Thứ Hai, 05/09/2005, 09:03 [GMT+7]
In bài này
.
Khách hàng giao dịch tại quầy ngân quỹ Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Phú Mỹ (huyện Tân Thành, Bà Rịa - Vũng Tàu). Ảnh: Nhựt Thanh

Tại Hội thảo về những lựa chọn chiến lược của ngành ngân hàng khi hội nhập mới diễn tại Hà Nội, ông Nguyễn Hữu Nghĩa, Trưởng phòng Chiến lược phát triển của Ngân hàng (NH) Nhà nước, cho rằng: hội nhập có thể khiến NH nội địa sẽ mất dần lợi thế cạnh tranh về quy mô, khách hàng và hệ thống kênh phân phối. Bởi vì, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các nhu cầu về tài chính, đầu tư, các dịch vụ NH của người dân sẽ ngày càng tăng. Do đó, thách thức cải thiện khả năng phục vụ khách hàng hiện đại hơn, chuyên nghiệp hơn đang đè nặng trên vai các NH.

CÁC NGÂN HÀNG NGOẠI BẮT TAY VÀO CHIẾN LƯỢC MỞ RỘNG THỊ PHẦN

Trong một tuyên bố mới phát đi, NH Hồng Kông và Thượng Hải (HSBC) - một NH vốn nổi tiếng là chỉ dành riêng cho các tập đoàn lớn và các khách hàng nước ngoài cũng không hề giấu diếm tham vọng sẽ tiếp tục mở rộng thị phần của mình. Từ 2 năm qua, HSBC đã tập trung gây dựng và tiếp thị uy tín của NH tới các đối tượng khách hàng là doanh nghiệp thành đạt và các chuyên viên điều hành quản lý người Việt Nam (VN). Kết quả, lượng khách hàng là người VN của NH này hiện đã lên tới con số 35%, mặc dù năm 2000 số lượng khách hàng người VN của HSBC mới chỉ chiếm 10%. HSBC còn nhận định: tỉ lệ này sẽ tăng thêm khi những khách hàng mới là người VN chiếm tỷ trọng ngày càng cao.

Cũng như HSBC, Ngân hàng ANZ (Ngân hàng quốc tế của Australia và New Zealand), UFJ (Ngân hàng Nhật Bản) và một số NH nước ngoài khác tại VN trước đó cũng đã có những động thái hướng các gói dịch vụ tới các khách hàng nội. ANZ là NH nước ngoài hàng đầu tại VN, được biết đến trong việc luôn đi đầu trong lĩnh vực cung cấp các dịch vụ NH cách tân và hiện đại. Từ năm 2000, ANZ đã trở thành NH nước ngoài đầu tiên và duy nhất cho ra đời một loạt các dịch vụ tiết kiệm và giao dịch NH dành cho các cá nhân người VN. Với UFJ, đầu năm 2005, được phép của NH Nhà nước, UFJ (Nhật) tại TP. Hồ Chí Minh đã nhanh chóng triển khai một nghiệp vụ mới tại VN là nghiệp vụ "bao thanh toán" cho các doanh nghiệp xuất khẩu... Tất cả các chiến lược này đều tiến tới mục tiêu rút ngắn khoảng cách giữa NH ngoại với các đối tác nội.

NGƯỜI DÂN VÀ DOANH NGHIỆP VN SẼ LỰA CHỌN NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI?

Tính đến cuối năm 2004, khối chi nhánh các NH nước ngoài chiếm 10% thị phần huy động vốn và tổng nguồn vốn huy động đã tăng 36% so với năm 2003. Dư nợ cho vay cũng tăng 31% chiếm 8,26% thị phần. Chất lượng tín dụng của khối này khá tốt, nợ quá hạn chỉ chiếm 0,16% tổng dư nợ cho vay của khối, lợi nhuận tăng 30% so với năm trước. Đối với khối các NH liên doanh, tỷ lệ nợ xấu chỉ có 0,24% so với tổng dư nợ của khối. Trong khi các NH thương mại VN mặc dù đã đưa ra khá nhiều biện pháp nhằm ngăn chặn nợ quá hạn, nợ xấu nhưng hiệu quả thực hiện các biện pháp đó vẫn chưa cao.

(Nguồn: Học viện ngân hàng)

Kết quả khảo sát do Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với một tổ chức quốc tế thực hiện mới đây cho thấy: 42% doanh nghiệp và 50% người dân được hỏi đều trả lời rằng, khi mở cửa thị trường tài chính, họ sẽ lựa chọn vay tiền tại các NH nước ngoài chứ không phải là NH nội địa, và 50% doanh nghiệp và 62% người dân được hỏi cho rằng họ sẽ lựa chọn NH nước ngoài để gửi tiền. Lý do của sự lựa chọn này là các NH nước ngoài có tính chuyên nghiệp cao, thủ tục đơn giản hơn, dịch vụ tốt và có độ tin cậy cao hơn.

Trong một khảo sát khác, Trung tâm Tư vấn Công nghệ và Đầu tư (Vietbid) cũng đã nhận định: "Các NH nước ngoài tiếp tục chú trọng đến các thị phần cụ thể và các NH quốc doanh sẽ bị mất các khách hàng quan trọng cũng như thị phần hiện tại". Vietbid đánh giá vào năm 2010, thị phần của NH quốc doanh sẽ chỉ còn là 40-55% (hiện tại là trên 70%). Thị phần khối NH cổ phần sẽ xấp xỉ 30%. Phần còn lại sẽ rơi vào tay các NH nước ngoài và liên doanh.

Nhận định về kết quả khảo sát này, một chuyên gia trong ngành NH cho rằng: hiện tại, kênh phân phối chính đang thuộc về các ngân hàng trong nước do các ngân hàng nước ngoài đang bị hạn chế về phạm vi và quy mô hoạt động. Tuy nhiên, những hạn chế này sẽ dần được loại bỏ từ năm 2010 sau khi các điều khoản về hội nhập thị trường tài chính trong BTA (Hiệp định thương mại Việt Mỹ) có hiệu lực cùng với lộ trình gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) của VN. Với ưu thế vốn và công nghệ, các chi nhánh NH nước ngoài có thể nhanh chóng mở rộng mạng lưới và chiếm lĩnh thị phần. Đây chính là điều các NH VN phải quan tâm và có chiến lược ngay từ bây giờ nếu không muốn để khách hàng của mình quay lưng và tìm đến với các NH ngoại.

Mai Phan

;
.