.

NGÀNH CÔNG NGHIỆP DẦU KHÍ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA TƯƠNG LAI

Cập nhật: 08:27, 30/12/2004 (GMT+7)
XNLD Vietsovpetro khai thác dầu trên vùng mỏ Bạch Hổ. Ảnh: Hữu Ngợt

Mặc dù mới đi vào khai thác và kinh doanh được khoảng 2 thập kỷ, nhưng ngành Dầu khí Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng vào sự phát triển của kinh tế nước nhà. Trong suốt những năm qua, dầu khí luôn là ngành kinh tế mũi nhọn, chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu GDP và chiếm từ 18-20% giá trị xuất khẩu cả nước. Tuy nhiên, để phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước trong bối cảnh quy mô, chất lượng khai thác và trữ lượng tìm thấy vẫn chưa cao, thì công tác tìm kiếm, thăm dò càng cấp bách hơn bao giờ hết.

TIỀM NĂNG KHÔNG LỚN, SONG VẪN CÒN DỒI DÀO

Đó là nhận định của GS.TS Trần Ngọc Toản, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu dầu khí và là một trong những chuyên gia hàng đầu về lĩnh vực này. Theo thống kê, nếu so với thế giới, sản lượng dầu khí của Việt Nam chỉ chiếm khoảng 0,3%. Còn với các nước trong khu vực châu Á -Thái Bình Dương, Việt Nam đứng thứ 6/15 quốc gia về sản lượng (sau Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, Ấn Độ, Australia), đạt khoảng 350.000 thùng dầu/ngày; nhưng về sản lượng tính theo đầu người, Việt Nam đứng thứ 7/15 quốc gia (cao hơn Trung Quốc) đạt sản lượng 4,5 thùng/ngày. Nếu tính theo mặt bằng chung về nhu cầu tiêu thụ xăng dầu trên thế giới hiện nay, trung bình một người dùng hết 5 thùng dầu/năm, thì Việt Nam mới chỉ đạt 0,95 thùng/người/năm (trong khi Trung Quốc là 1,5 thùng/người/năm). Do đó, về cơ bản đến năm 2020 (năm mà chúng ta xác định Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp), với số dân khoảng hơn 100 triệu người, thì tổng nhu cầu tiêu thụ xăng dầu là 75 triệu tấn/năm (tính theo mức trung bình trên thế giới hiện nay); còn nếu lấy mức trung bình của Trung Quốc ở thời điểm này, nhu cầu tiêu thụ xăng dầu của chúng ta vào khoảng 20 triệu tấn/năm. Rõ ràng với sản lượng khai thác và tìm kiếm, thăm dò như hiện nay không thể nào đáp ứng được nhu cầu.

Theo GS. TS Trần Ngọc Toản, chúng ta đã xác định được 8 bể trầm tích có khả năng chứa dầu, với tổng dịên tích gần 1 triệu km2, gồm: Bể Sông Hồng (vịnh Bắc bộ) diện tích khoảng 160 ngàn km2; Bể Phú Khánh (từ Đà Nẵng đến Bình Thuận) 40 ngàn km2; Bể Cửu Long (đối diện tỉnh BR-VT) 60 ngàn km2; Bể Nam Côn Sơn khoảng 40 ngàn km2; Bể Mã Lai- Thổ Chu (gần vịnh Thái Lan) 40 ngàn km2; Bể Vũng Mây -Tư Chính (giữa Nam Côn Sơn và quần đảo Trường Sa) 60 ngàn km2 và một vài bể ở Hoàng Sa và Trường Sa là chưa xác định được. Dự báo trữ lượng của các bể nói trên khoảng 4 tỷ tấn dầu tương đương (nghĩa là bao gồm cả khí thiên nhiên).

CẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG KHAI THÁC HƠN SẢN LƯỢNG KHAI THÁC

Trữ lượng dự báo như vậy, song trên thực tế chúng ta mới xác minh (trữ lượng xác minh) được khoảng 1 tỷ tấn dầu quy đổi. Và hiện nay mức độ khai thác của Việt Nam mới đạt 30% (thế giới từ 40- 45%), nên trữ lượng thu hồi không vượt quá 400 triệu tấn dầu quy đổi. Cũng theo GS Toản, trong số 400 triệu tấn dầu khí (trữ lượng thu hồi), chúng ta đã khai thác được 150 triệu tấn, sản lượng còn lại là 250 triệu tấn. Do đó, trong thời gian tới ngành Dầu khí không nâng cao trữ lượng thu hồi và nhanh chóng tìm ra những mỏ mới thì nếu không thể đáp ứng được nhu cầu hiện nay (dẫu chúng vẫn phải xuất khẩu dầu thô để nhập khẩu xăng dầu). Muốn làm được điều đó, Chính phủ cũng như bản thân ngành Dầu khí phải có những khoản đầu tư thích đáng trong lĩnh vực thăm dò và tìm kiếm.

Thống kê cho thấy, trong năm 2004 toàn ngành Dầu khí khai thác đạt sản lượng hơn 17 triệu tấn dầu quy đổi (trong đó, các Bể: Cửu Long và Nam Côn Sơn đạt sản lượng khai thác 15 triệu tấn, còn lại 2 triệu tấn là của Bể Mã Lai- Thổ Chu) và dự báo năm 2005 là 18,5 triệu tấn. Vì thế, để duy trì khả năng khai thác trong bối cảnh nước ta vẫn chưa có nền công nghiệp lọc dầu (Nhà máy lọc dầu Dung Quất đang trong quá trình xây dựng, Nhà máy lọc dầu Nghi Sơn tuy đã có quyết định nhưng chưa đi vào xây dựng), theo các chuyên gia kinh tế trong những năm tới chỉ nên dừng lại ở con số khai thác 20 triệu tấn/năm. Vì nếu khai thác tràn lan, thì sau này lượng dầu, khí sẽ cạn kiệt, mà lượng ngoại tệ thu về cho ngân sách quốc gia cũng không lớn. Đơn cử, năm nay doanh thu từ khai thác dầu khí đạt khoảng 6,4 tỷ USD (xuất khẩu khoảng 5,8 tỷ USD), phần Việt Nam thu được cũng chỉ đạt từ 60- 65%. Còn xét trên khía cạnh gia tăng (GDP tăng thêm), năm nay toàn ngành xuất khẩu được 17 triệu tấn dầu thô, song nhập khẩu dầu tinh (xăng, dầu) đã lên tới 12 triệu tấn. Tính ra giữa kim ngạch xuất khẩu thu được vừa đủ hoà vốn để dùng cho việc nhập khẩu xăng, dầu. Rõ ràng, phần giá trị tăng thêm (hay nói đúng hơn là phần lợi nhuận) vô tình đã "đổ" về phía các doanh nghiệp nước ngoài (các công ty chế biến).

GS. Toản nhận xét, việc đề ra chiến lược xây dựng các nhà máy lọc dầu ở cả 3 miền đất nước là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn. Song điều đáng nói ở đây chính là việc chọn thời điểm xây dựng nhà máy đầu tiên như thế nào để mang lại hiệu quả kinh tế cao. Nếu như ngay từ lúc có chủ trương xây dựng nhà máy lọc dầu số 1, chúng ta chọn Bà Rịa- Vũng Tàu, Đồng Nai... hay một tỉnh gần nơi khai thác dầu khí (có lợi thế về hạ tầng, về giao thông cả về giá vận chuyển, so với việc chọn Dung Quất) thì nay nhà máy chắc đã hoàn thành. Và như thế, không những chúng ta giảm bớt được việc nhập khẩu 100% xăng, dầu mà phần giá trị tăng thêm từ dầu khí mang lại để phục vụ công cuộc xây dựng đất nước còn lớn hơn nhiều.

LÀM THẾ NÀO ĐỂ KHAI THÁC BỀN VỮNG VÀ MANG LẠI HIỆU QUẢ CAO?

Trả lời câu hỏi trên, các chuyên gia trong lĩnh vực dầu khí khuyến cáo, trong thời gian tới phải chú trọng đến các khía cạnh: Cân đối, đồng bộ và bảo đảm cho sự tăng trưởng. Để làm tốt điều này, hiện nay ngành Dầu khí đang tập trung đẩy mạnh vào 3 vấn đề trọng tâm, là: Đầu tư trong công tác tìm kiếm, thăm dò để đảm bảo đủ tài nguyên khai thác trong nhiều năm; áp dụng các tiến bộ khoa học- kỹ thuật để lấy lượng dầu khai thác cao (hiện mới chỉ đạt 30%) và khẩn trương xây dựng các nhà máy lọc dầu đã được và sẽ được Bộ Chính trị, Quốc hội phê duyệt. Theo tính toán, nếu chúng ta đẩy nhanh tiến độ xây dựng 3 nhà máy lọc dầu (Dung Quất, Nghi Sơn và Vũng Rô- vừa được Thủ tướng Chính phủ đồng ý về mặt nguyên tắc), thì với sản lượng khai thác như hiện nay đủ để cung cấp cho các nhà máy nói trên. Và cũng có thể đủ cung cấp cho nhu cầu tiêu thụ trong nước.

Điều đáng nói, tuy trữ lượng không cao như một số nước trong khu vực và thế giới, nhưng sản phẩm dầu Việt Nam được xếp vào hàng có chất lượng tốt nhất thế giới. Bằng chứng là lượng lưu huỳnh chỉ chiếm 0,3% (chất lượng tương đương với dầu MINAS của Indonesia). Bởi thế, nếu công tác tìm kiếm, thăm dò để khai thác được triển khai tích cực, đồng bộ với việc xây dựng các nhà máy lọc dầu đi kèm, thì mặt hàng xăng dầu của Việt Nam sẽ có vị trí lớn trên bản đồ xăng, dầu thế giới.

Đăng Hà

.
.
.