“Một buổi chiều, Bác Tư- bạn chiến đấu với ba tôi xuất hiện. Bác nói chuyện với má tôi rất lâu. Sau đó, bác kéo tôi ra bờ sông, hỏi khẽ: Tổ chức định cho cháu ra Bắc học, ý cháu sao? Tôi trả lời không cần suy nghĩ: Cháu đi! Câu trả lời dứt khoát đó - về sau tôi mới hiểu, đã đưa tôi đến với cách mạng” - cựu học sinh miền Nam Lê Sơn nhớ lại.
![]() |
Thiếu nhi miền Nam ra Bắc tập kết trong vòng tay chào đón của Bác Hồ và đồng bào miền Bắc. |
Từ lời căn dặn của Bác…
Ngày 21/7/1954, sau khi Hiệp định Geneva được ký kết, hòa bình được lập lại ở Việt Nam và Đông Dương. Theo đó, Việt Nam tạm bị chia cắt thành hai miền Nam, Bắc, lấy vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải, tỉnh Quảng Trị) làm giới tuyến tạm thời. Theo kế hoạch, sau hai năm, hai miền Nam, Bắc sẽ tiến hành hiệp thương tổng tuyển cử để đi đến thống nhất đất nước. Thế nhưng, với tầm nhìn xa trông rộng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng dự cảm cuộc đấu tranh thống nhất đất nước có thể còn lâu dài và gian khổ.
Vì vậy, cùng với việc chuyển bộ đội và cán bộ kháng chiến tập kết, Bác Hồ và Trung ương Đảng đã đưa ra một quyết định mang tầm chiến lược, đó là đưa thiếu nhi, học sinh là con em cán bộ, chiến sĩ ra Bắc để chăm sóc, đào tạo. Đây là “những hạt giống đỏ” để sau này trở thành lực lượng nòng cốt xây dựng lại miền Nam, tái thiết đất nước. Mặt khác, các cán bộ, chiến sĩ cách mạng còn ở lại miền Nam cũng sẽ yên lòng chiến đấu khi biết rằng con em mình đang ở trong “vòng tay” của đồng bào miền Bắc.
![]() |
Những chiếc tàu Xtaprôpôn của Liên Xô và Kilinski của Ba Lan bắt đầu rẽ sóng, đưa những cánh chim phương Nam đến với tổ ấm phương Bắc. |
Việc thu nhận con em miền Nam ra miền Bắc nuôi dạy, đào tạo cũng là cách thể hiện quan điểm của Đảng, Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh với cách mạng miền Nam, không chỉ có ý nghĩa chính trị mà còn là tình cảm và trách nhiệm của miền Bắc đã được hòa bình, tự do đối với miền Nam còn đang phải chịu đàn áp, khổ đau, hy sinh mất mát dưới chế độ Mỹ- Diệm.
Khi đồng chí Hoàng Quốc Việt dẫn đầu đoàn đại biểu Đảng, Chính phủ vào miền Nam để nắm tình hình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Nhắc nhở các cấp, các ngành quân, dân, chính ở miền Nam thực hiện nghiêm túc và chuẩn bị chu đáo việc đưa thiếu nhi, học sinh miền Nam tập kết theo đúng tiêu chuẩn, chính sách, khẩn trương và bảo đảm an toàn”.
![]() |
Những chiếc tàu Xtaprôpôn của Liên Xô và Kilinski của Ba Lan bắt đầu rẽ sóng, đưa những cánh chim phương Nam đến với tổ ấm phương Bắc. |
… đến hành trình định mệnh
Ông Lê Sơn, cựu HS miền Nam hồi tưởng: “Một buổi chiều, Bác Tư - bạn chiến đấu với ba tôi xuất hiện. Bác vào nhà, nói chuyện với má tôi rất lâu. Sau đó, bác kéo tôi ra bờ sông, hỏi khẽ: “Tổ chức định cho cháu ra Bắc học, ý cháu sao?”. Tôi trả lời không cần suy nghĩ: “Cháu đi!”.
Bác Tư hơi sửng sốt trước câu trả lời dứt khoát của tôi. Khuya hôm đó, như thường lệ, tôi dậy sớm, cùng má chuẩn bị đi bán các món ăn sáng, Má lại hỏi tôi cái câu mà bác Tư đã hỏi. Tôi vẫn dứt khoát: “Con đi!”.
Bắt đầu từ cuối năm 1954, những chiếc tàu Xtaprôpôn của Liên Xô và Kilinski của Ba Lan bắt đầu rẽ sóng, đưa những cánh chim phương Nam rời xa gia đình để đến với tổ ấm phương Bắc. Các điểm tập kết tại miền Nam là biển Ông Đốc (Cà Mau), Hàm Tân - Xuyên Mộc (Bà Rịa - Vũng Tàu), Quy Nhơn (Bình Định), Cao Lãnh (Đồng Tháp).
![]() |
Đồng bào miền Bắc đón đoàn cán bộ, bộ đội và các cháu miền Nam ra tập kết. |
Ông Trần Cao Đề, cựu HS miền Nam, nguyên Giám đốc Sở Giao thông-Vận tải tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu kể, ông sinh ra ở huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Cha ông khi ấy là Chủ tịch Mặt trận Việt Minh huyện thường xuyên công tác xa nhà, gia đình lại nghèo và đông con nên 6-7 tuổi ông đã được đưa về ở với bà nội.
“Ngày tập kết ra Bắc, bà nội đưa tôi đến tận địa điểm tập kết ở Quy Nhơn, cách nhà 50 cây số. Hành trang lúc đó chỉ có vài ba bộ quần áo, một ít tiền bà chắt chiu, dành dụm được, một bao tải mãng cầu nhà trồng và một tấm ảnh đằng sau có ghi tên, tuổi. Khi tàu rời bến, bà con trên bờ vẫy chào tiễn đưa. Những người trên tàu đưa 2 ngón tay lên thay cho lời hẹn sau 2 năm hiệp thương, tổng tuyển cử sẽ trở về. Lúc đó tôi 9 tuổi. Ai ngờ rằng, chuyến đi định mệnh ấy kéo dài tới tận 21 năm”, ông Trần Cao Đề kể.
Con tàu Ba Lan lênh đênh trên biển suốt 3 ngày 3 đêm. Với những đứa trẻ lần đầu xa nhà, cảm giác chòng chành giữa mênh mông sóng nước hòa cùng nỗi nhớ nhà cồn cào khi quê hương dần khuất bóng.
Từ cuối năm 1954 đến giữa năm 1955, những con tàu đưa HS miền Nam về các điểm tập kết miền Bắc ở Quý Cao (Thái Bình), Sầm Sơn (Thanh Hóa), Cửa Hội (Nghệ An). Mãi tới bây giờ, ông Đề không sao quên được khoảnh khắc con tàu cập bến Quý Cao. “Xa xa, cầu tàu nhô ra. Cả rừng người áo nâu, nón lá đã đứng chờ sẵn trên bờ giữa cái lạnh se sắt của miền Bắc với khẩu hiệu: “Hoan hô các cháu miền Nam tập kết”, ông Đề nhớ lại.
Sau cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, dự báo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước có thể còn kéo dài, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị quyết định tiếp tục đưa con em cán bộ, chiến sĩ miền Nam ra hậu phương lớn miền Bắc đào tạo.
“Sự kiện cán bộ, chiến sĩ, học sinh, thiếu nhi miền Nam tập kết ra Bắc năm 1954 trở thành dấu ấn sâu đậm trong lịch sử hào hùng của dân tộc, lắng đọng trong tâm khảm, trong trái tim của biết bao thế hệ người dân đất Việt Nam. Đây là biểu tượng sáng ngời của chân lý nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Đây là biểu tượng sinh động về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, về tình đồng chí yêu thương đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau, sẵn sàng chia sẻ mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh; là minh chứng về niềm tin tưởng tuyệt đối của đồng bào miền Nam đối với Bác Hồ, với Đảng, với Nhà nước...
(Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa phát biểu tại Lễ kỷ niệm 70 năm Trường Học sinh miền Nam trên đất Bắc, 55 năm các thế hệ HS miền Nam thực hiện di chúc Bác Hồ)
|
Hàng chục ngàn con em cán bộ và đồng bào miền Nam không vượt tuyến bằng đường bộ hay vượt biển bằng tàu thủy Liên Xô, Ba Lan như trước nữa mà đi bộ vượt Trường Sơn ra Bắc, ngược đường với các đoàn quân của miền Bắc nườm nượp chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam.
![]() |
Đồng bào miền Bắc đón đoàn cán bộ, bộ đội và các cháu miền Nam ra tập kết. |
Trong “Nhật ký chiến trường”, Nhà văn Liệt sĩ Dương Thị Xuân Quý viết:
“25-5-1968. Gặp một đoàn 13 cháu đi bộ từ Gia Lai ra đã hơn một tháng rưỡi rồi. Các cháu bé loắt choắt, đeo cái ba lô nhỏ xíu, chạy lon ton giữa rừng khiến mình cảm động quá. Đoàn có 4 cháu gái và 9 cháu trai. Bé nhất là một cháu người Thượng có mái tóc cứng và xoăn, cổ tay, cổ chân gầy ngoằng như ống sậy, đeo chiếc túi đen. Cháu mới 11 tuổi. Cháu Trưởng đoàn cũng chỉ 14 tuổi. Các cháu ra Bắc học. Những hôm còn ở đường dây giải phóng, các cháu phải mang gạo đủ ăn từng chặng năm ngày và tự nấu ăn bằng hăng-gô. Được cái võng của các cháu bằng ny lông nên bớt nặng được chút ít. Tất cả đều là con em cán bộ trong ấy ra Bắc học. Các cháu đi rất khá, vượt các chú thương binh và ít nghỉ. Trời ơi, đất nước ta, dân tộc ta anh hùng quá...! Thì ra không chỉ có bàn chân bộ đội vượt Trường Sơn, không phải chỉ có những người phụ nữ vượt Trường Sơn mới đáng ca ngợi, mà chính các cháu, với đôi chân bé xíu phải xa ba má vượt Trường Sơn ra Bắc mới là những tấm gương chói sáng và trong trẻo. Các cháu kể chuyện có những chú đào ngũ, gặp các cháu, lại khoác ba lô trở lại chiến trường”.
KHÁNH CHI
(Còn nữa)