Từ kinh nghiệm đúc kết qua 40 năm đổi mới, với quan điểm “Đảng lãnh đạo, Chính phủ thống nhất, Quốc hội đồng tình, Nhân dân ủng hộ, Tổ quốc mong đợi”, với tinh thần “chỉ bàn làm, không bàn lùi, làm việc nào ra việc đấy, làm việc nào dứt việc đó”, chúng ta tin tưởng kinh tế Việt Nam năm 2025 sẽ có những thay đổi căn bản, tích cực, có thể đạt mục tiêu tăng trưởng cao, tạo nền tảng và sức mạnh cho giai đoạn phát triển vượt bậc trong kỷ nguyên mới.
![]() |
Cụm cảng Cái Mép-Thị Vải. Ảnh: TRÀ NGÂN |
Nhận diện một số thách thức
Kinh tế Việt Nam năm 2025 có bối cảnh thuận lợi và khó khăn đan xen, nhưng khó khăn, thách thức nhiều hơn.
Trước hết, kinh tế nước ta hội nhập sâu rộng vào kinh tế thế giới, chịu tác động rất mạnh của những biến động từ bên ngoài. Trong khi đó, năm 2025, kinh tế thế giới có nhiều yếu tố bất ổn, khó lường.
Kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới nhận định các nền kinh tế đang phát triển mất đi nhiều động lực từng thúc đẩy tăng trưởng và đang đối mặt với các yếu tố bất lợi như nợ công cao, đầu tư và năng suất lao động thấp, biến đổi khí hậu và chủ nghĩa bảo hộ ngày càng mạnh mẽ.
Ở trong nước, tăng trưởng kinh tế đang đối mặt với những nhóm rào cản. Quá trình triển khai thực thi quyết định ở một số bộ ngành, địa phương có lúc còn chậm khiến nguồn lực chưa được sử dụng hiệu quả. Cơ sở hạ tầng chưa theo kịp và đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội. Nguồn nhân lực còn hạn chế về chất lượng.
Các yếu tố tăng trưởng bên “cầu” của nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi nhưng chậm, chưa rõ nét, tính bền vững không cao. Mặt khác, động lực tăng trưởng dựa vào xuất khẩu có thể gặp rủi ro từ chính sách thuế quan và bảo hộ thương mại của các nước đối tác thương mại chủ yếu của Việt Nam. Hàng hóa xuất khẩu của nước ta chưa đa dạng, còn lệ thuộc vào một vài thị trường chính. Các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn là những mặt hàng nhập khẩu nguyên vật liệu về gia công, nên đóng góp vào GDP thấp.
Trong khi đó, giải ngân vốn đầu tư công chưa được như mong muốn, đầu tư của khu vực ngoài nhà nước chưa tương xứng với tiềm năng.
Một số tiền đề khơi dậy sự bứt phá tăng trưởng kinh tế
Sau Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Bộ Chính trị đã lãnh đạo, chỉ đạo nhiều nội dung quan trọng để tạo nền tảng, phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, nhất là đổi mới tư duy trong xây dựng pháp luật, hoàn thiện thể chế, tháo gỡ các điểm nghẽn, khơi thông các nguồn lực, phân cấp, phân quyền mạnh mẽ gắn với sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đẩy mạnh hoàn thiện hạ tầng, đào tạo nhân lực, đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số.
Đây là cơ sở để Ban Chấp hành Trung ương thống nhất, Chính phủ trình Quốc hội Đề án bổ sung phát triển kinh tế-xã hội năm 2025 với mục tiêu tăng trưởng đạt 8% trở lên và tăng trưởng giai đoạn 2026-2030 liên tục đạt hai con số.
Bước vào năm 2025 với khí thế quyết tâm cải cách, đột phá, đổi mới trong cả hệ thống chính trị, với phương châm bám sát thực tiễn, Chính phủ điều hành theo nguyên tắc “Kỷ cương trách nhiệm; chủ động kịp thời; tinh gọn hiệu quả; tăng tốc bứt phá”, kịp thời ứng phó với các vấn đề phát sinh, tiếp tục đẩy mạnh 3 đột phá chiến lược. Trong đó, thể chế được xác định là “đột phá của đột phá” để tập trung tháo gỡ các rào cản, giải phóng mọi nguồn lực, nhất là nguồn lực đang bị tồn đọng cho phát triển.
Luật Đầu tư công và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư có hiệu lực ngay từ đầu năm 2025 sẽ giúp giải quyết các vướng mắc và đẩy nhanh tiến độ xây dựng cơ sở hạ tầng, cùng các dự án trọng điểm được Thủ tướng Chính phủ quyết liệt đốc thúc triển khai, kỳ vọng sẽ thúc đẩy giải ngân mạnh mẽ vốn đầu tư công, tạo niềm tin và sức lan tỏa thúc đẩy thực hiện vốn đầu tư ngoài nhà nước và vốn FDI.
Đặc biệt, ngày 22/12/2024, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Thực hiện thành công Nghị quyết này sẽ đưa nền kinh tế nước ta hòa nhịp với dòng chảy mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nâng cao năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Nâng cao năng suất lao động là con đường ngắn nhất để phát triển nhanh, bền vững, năng suất lao động gần như là yếu tố quyết định tất cả.
Cơ cấu lại nền kinh tế, tạo dựng mô hình kinh tế mới
Để đạt được tăng trưởng cao trong hàng thập kỷ, nền kinh tế phải có năng lực thực tế, có tiềm năng dồi dào, có thị trường tiêu thụ ổn định. Hiện nay, các động lực tăng trưởng bên “cầu” của nền kinh tế chưa đủ mạnh, cần thời gian phục hồi; các động lực tăng trưởng mới bên “cung” cần có thời gian tạo dựng, phát huy hiệu quả và có thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Để đạt mức tăng trưởng cao nhất có thể cho năm 2025, tạo thế và lực cho đất nước bước vào kỷ nguyên mới, Chính phủ đang tiếp tục quyết liệt chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương khẩn trương xác định những tồn tại, bất cập, thách thức còn cản trở các động lực tăng trưởng, đặc biệt đối với nhóm thể chế và môi trường pháp lý. Từ đó, đưa ra các giải pháp tháo gỡ; khơi thông các nguồn lực; gắn tinh thần trách nhiệm và chịu trách nhiệm của thủ trưởng các bộ, ngành, lãnh đạo các địa phương; thực thi nghiêm chế tài đối với cán bộ công chức thiếu trách nhiệm nhằm phát huy tối đa sức mạnh, tính hiệu quả của các động lực tăng trưởng.
Cùng với đó, Chính phủ tiếp tục khẩn trương thực hiện sắp xếp, tinh gọn bộ máy, xây dựng và vận hành Nhà nước quản trị quốc gia hiệu lực, hiệu quả; thực hiện phương pháp quản lý thực tiễn, hiệu quả của khu vực tư nhân trong quản lý khu vực công; nâng cao hiệu suất và kiểm soát kết quả công việc; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, xóa bỏ tập trung quyền lực, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong bộ máy nhà nước, nhằm đạt hiệu quả công việc cao nhất.
Đặc biệt, việc cơ cấu lại nền kinh tế có vai trò quan trọng trong đổi mới mô hình tăng trưởng, tạo dựng mô hình tăng trưởng mới ưu việt, phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và tạo động lực mới cho phát triển.
Theo đó, cơ cấu lại nền kinh tế cần thực hiện dựa trên đánh giá năng lực thực tế, tiềm năng và xu hướng phát triển của từng ngành, từng lĩnh vực, đặt trong xu hướng phát triển của kinh tế toàn cầu, từ đó có chính sách và giải pháp tập trung nguồn nhân lực, vật lực và tài lực thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế.
Các mô hình kinh tế mới như kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn sẽ tối ưu hóa việc sử dụng nguồn tài nguyên, giảm thiểu lãng phí và tác động xấu tới môi trường; tạo ra giá trị kinh tế cao hơn, phù hợp với xu hướng toàn cầu, tạo động lực cho tăng trưởng bền vững.
Các chủ thể liên quan cần khẩn trương hơn trong việc thể chế hóa và triển khai thực hiện các quan điểm, mục tiêu phát triển bền vững của Đảng và Nhà nước; tạo hành lang pháp lý đầy đủ, có cơ chế chính sách vượt trội để các nhà quản lý, cộng đồng doanh nghiệp triển khai các mô hình kinh tế mới ưu việt.
Thực hiện các mô hình kinh tế mới ưu việt không chỉ phụ thuộc vào hành lang pháp lý mà còn phụ thuộc rất nhiều vào sự chủ động, thích ứng, sáng tạo, năng động của cộng đồng DN.
Cùng với tháo gỡ các điểm nghẽn về thể chế; cơ cấu lại nền kinh tế, tạo dựng mô hình kinh tế mới ưu việt, điều đặc biệt quan trọng là cần khẩn trương xây dựng và vận hành đầy đủ, đồng bộ, hiệu quả các thị trường-yếu tố cơ bản cấu thành nền kinh tế thị trường, bao gồm thị trường đất đai, thị trường sức lao động, thị trường tài chính, thị trường hàng hóa, thị trường khoa học công nghệ…
Đầu tư ngoài Nhà nước chiếm tỷ trọng lớn nhất, là động lực tăng trưởng dài hạn và quan trọng, do đó cần tạo môi trường kinh doanh bình đẳng cho mọi loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Cùng với đó cần chủ động, linh hoạt thực hiện chính sách tài khóa, tiền tệ có trọng tâm, trọng điểm phối hợp đồng bộ, hài hòa, chặt chẽ với các chính sách khác đáp ứng nhu cầu, đảm bảo lợi ích của các thực thể có liên quan để giữ ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát.
NGUYỄN BÍCH LÂM
(Nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê)