Những ngày có ba

Thứ Sáu, 07/09/2018, 08:24 [GMT+7]
In bài này
.

Nhà tôi nằm trên một ngã ba sông. Bạn có thể thấy thật lạ khi căn nhà bỗng như mọc lên giữa sông nhưng đó là câu chuyện của hai mươi năm về trước. Con sông đào sâu chừng 5m vốn chạy qua trước mặt nhà ông ngoại tôi. Ngày ba đi hỏi cưới mẹ, ông chỉ tay ra ngã ba sông thách thức: “Mày dựng được căn nhà hỏi vợ ngay ngã ba sông này, tao gả liền”. Ông ngoại tôi hay bất kỳ một người cha nào khác trong làng này dĩ nhiên không hề muốn gả con gái cho ba tôi, một tay khét tiếng cờ bạc đã ăn trong máu, nhà cửa chẳng có.

Minh họa của: MINH SƠN
Minh họa của: MINH SƠN

Lời thách cưới không tưởng ấy ai dè là động lực cho ba. Ông chọn thời điểm tháng 5, mùa sông cạn nước nhất để đắp đập, be bờ. Hàng chục thanh niên trai tráng trong làng, nhiều người không thân quen nhưng khi biết chuyện vẫn nhiệt tình giúp ba đắp đất xây nhà. Nhà tôi nằm giữa ngã ba sông là vậy. Ba tôi cưới được vợ, người con gái có tiếng đảm đang, ngoan ngoãn trong làng cũng là nhờ vậy. Ngày con gái đi lấy chồng, mặt ông ngoại tôi buồn thiu. Nhưng dù là nông dân cả đời lam lũ, ông vẫn luôn nói: “Quân tử nhất ngôn”. Ông chỉ yên tâm hơn chút khi ba tôi lầm rầm khấn trước bàn thờ tổ tiên lời thề chẳng giống ai: “Con xin thề sẽ bỏ cờ bạc, chí thú làm ăn để lo cho gia đình”.

Trong suy nghĩ của bốn anh em chúng tôi, ba là người quyết đoán. Quyết đoán đến mức nhiều khi tưởng khắc nghiệt. Năm 20 tuổi, tôi lần đầu tiên trở về quê sau một thời gian dài đi làm xa nhà. Trước giao thừa vài tiếng, mấy đứa bạn rủ ra đình đánh bài thử vận đỏ đen. Tôi gặp vận đỏ, thắng hơn năm triệu. Số tiền không nhỏ so với vùng quê nghèo chiêm trũng này. Về đến nhà, nhìn vẻ mặt tươi rói của tôi, ba rót nước gọi lại uống và nói chuyện. Mỗi lúc ba gọi uống nước và nói chuyện, tự chúng tôi hiểu sẽ có một việc nghiêm trọng. 

- Con vừa đi đâu về vậy Linh? 

- Con đi chơi.

- Chơi đâu?

Tôi lúng túng thực sự. Kể từ khi lấy vợ, ba tôi đã thề đoạn tuyệt và chưa bao giờ ủng hộ trò đỏ đen. Nhưng với tôi, đó chỉ là trò chơi may rủi, trong làng tôi có tới 3/4 thanh niên trai tráng thân quen nhau hơn trên chiếu bạc. 

Ba ngay lập tức nắm bắt được suy nghĩ của tôi. Ông nhìn với ánh mắt dò xét:

- Con thắng hay thua?

- Dĩ nhiên con thắng. Nhiều lắm ba, hơn năm triệu bạc.

Bất ngờ, ông vung cánh tay săn chắc, đen bóng bổ mạnh xuống mặt bàn:

- Đặt lên đây!

Tôi lúi húi đặt lên. 

- Mày nghĩ sao vậy con? Mày đi làm xa quê còn có đồng ra đồng vô về quê ăn tết. Hầu hết những thằng ngồi chung chiếu bạc với mày hôm nay, chúng nó không có tiền, mùa màng năm nay thất bát. Tụi nó muốn bỏ con tép bắt con tôm, có thêm chút đỉnh mua chút thịt chút bánh cho vợ cho con ba ngày tết. Vậy mà mày ăn hết tiền của tụi nó với vẻ mặt hớn hở thế kia. Khốn nạn!

Tôi nóng mặt khi nghe ông dằn hai từ chửi nặng nề ấy. Lần đầu tiên tôi thấy các cơ trên khuôn mặt ông rần rật rung lên, xô lại vì giận giữ.

- Bây giờ ba muốn sao?

- Đồ ngu. Ra đình trả ngay tiền cho tụi nó. 

- Mọi người về hết rồi.

- Vậy mày gõ cửa từng nhà mà trả. 

Giao thừa năm ấy, tôi như một kẻ ngu (cũng có thể có người coi là đạo đức nhưng tôi vẫn nghĩ người ta nhìn mình giống thằng ngu hơn) khi đi khắp làng gõ cửa những người thua bạc để trả tiền cho họ. Trong lòng tôi lúc ấy tràn ngập sự cay cú với ba. Tôi chấp nhận đi không phải vì phục lời ba mà vì ánh mắt mẹ tôi lúc đó như van nài, như cầu xin. Nếu tôi không nghe lời ba, ba nói nhà người ta mất hết cái tết, riêng tôi nghĩ nhà mình cũng mất hết cả tết.

Cũng từ đó, chẳng thề nguyền với ai nhưng tôi không bao giờ ngồi lại chiếu bạc. Tôi nhớ như in cái đêm ba mươi thắng đậm ở quê và mất sạch hứng thú đỏ đen.

* * *

Mùa hè năm đó, ba tôi trở bệnh. Căn bệnh ung thư phổi khiến ông xuống sức nhanh chóng. Những năm cuối cùng, ông trồng quanh vườn nhà từng gốc mãng cầu, gốc ổi. Trước nhà là một dãy dài cam, bưởi. Nhiều người biết bệnh tình của ba, thở dài nhìn ông: “Làm chi khổ vậy? Ông để dành sức mà sống, trồng mấy thứ cây lâu năm này bao giờ mới có trái cho ông ăn”. Ông chỉ cười rất hiền: “Tui trồng cho tụi cháu tui ăn, lũ trẻ trong xóm ăn”. “Cháu ông đâu?”. “Thằng Hải sắp lấy vợ rồi, cả mấy thằng em nó nữa. Mai mốt chắc cũng con đàn cháu đống. Chưa chắc tui gặp hết cháu chắt tui nhưng chắc chắn tụi nó sẽ được ăn những trái cây tui trồng”. Lúc đó, cả bốn anh em tôi đều chưa ai dựng vợ gả chồng. Chỉ mỗi tôi có người yêu vừa ra trường, chỉ chờ ổn định công việc là có thể cưới hỏi. 

Tôi nghe xót lòng, giục Ngọc tổ chức đám cưới. Ngọc dĩ nhiên đồng ý ngay, bởi với tính nhạy cảm của phụ nữ, em còn xót xa hơn cả tôi khi nghe ba nói như vậy. 

Ngày ba vào bệnh viện, nằm chung phòng cấp cứu với ba có khá nhiều cụ ông cụ bà sàn sàn tuổi. Trong khi nhiều người hay dành một khoảng thời gian đáng kể trong ngày để ngồi thở dài, ngẫm nghĩ về cái chết thì ba vẫn lạc quan: “Cái chết có gì đâu, lúc nào tới số, trên gọi thì mình đi thôi”. Được vài hôm, lần đầu ông tỏ ra ưu tư khiến chúng tôi nhầm tưởng ông bắt đầu giống các cụ kia, sợ cái chết đang gần kề… 

Ba gọi tôi ra góc sân bệnh viện. Bàn tay gầy guộc, đen sạm của ông nắm tay tôi:

- Linh, con thấy cụ già cuối phòng cấp cứu không?

Ông cụ là một nghệ nhân làng mộc - ba tôi chầm chậm kể - Trong khi cụ nằm đây thì cụ bà hàng ngày vẫn đi lượm rác kiếm thêm tiền trang trải viện phí vì gia cảnh neo đơn. Sáng nay, bác sĩ nói nếu không có giác mạc sẽ không thể cứu được đôi mắt ông cụ ấy nữa. Mà nghề của ông cụ, ba tôi khẳng định, mai mốt ra viện, nếu không có đôi mắt thì chẳng làm được gì. 

Ba tôi lặng đi một lúc. Tôi thở dài: 

- Tội nghiệp ông cụ quá, ba há.

- Linh, ba tính như vầy được không? Mày lên bệnh viện hỏi xin cho ba tờ đơn xin hiến giác mạc để cứu đôi mắt ông cụ. Mai mốt tao chết cũng chẳng cần đôi mắt đen theo làm gì. Lúc cụ còn cần thì có thể cứu được, nếu không cũng sẽ rất cần cho những người khốn khổ như cụ vậy. 

Ba tôi rành rẽ, dù ông nói “ba tính” như dò ý tôi nhưng kỳ thực, giọng ông vang vang nói như ra lệnh. Tôi muốn nói với ba rằng, ba ơi, chi mà cực vậy, ruột gan phèo phổi ba đã không lành rồi, còn đôi mắt lành, chân tay lành… chí ít có được hình hài lành lặn cũng cần giữ lấy để còn đi gặp ông bà chứ. Nhưng họng tôi nghẹn đắng, không cất tiếng nổi.

Mà cần gì tôi nói, mắt ba tôi long lanh nhìn như thấu tim gan tôi. Ông lắc lắc cánh tay tôi: “Con à, giúp ba đi. Nếu không có khi không kịp”. Như có linh tính, ngay sau khi tôi vừa hoàn tất thủ tục theo ý nguyện cuối cùng của ba thì bệnh viện trả ba về cho gia đình. Trước khi rời bệnh viện, ba tôi vẫn nhìn về phía những người bạn già với ánh mắt nhẹ nhõm niềm vui.

Ngày chúng tôi đưa ba về lại căn nhà cũ, mảnh vườn cũ mà ba đã vắng bóng gần nửa năm nay, lứa ổi đầu tiên vừa chín tới. Hương ổi thơm lịm trong gió se đưa ra tận con đường chạy qua trước nhà. Ba khẽ à lên một tiếng nói tôi: 

- Con nhớ hái ổi cho lũ trẻ trong xóm, để rụng uổng. 

Rồi ông ngoái nhìn về cu Tít, vợ tôi mới sinh, đang ngoẹo cổ ngủ say trong lòng mẹ nó: - Cháu nhà mình chắc vài năm nữa mới có thể ăn ổi. Ông không kịp hái cho cháu, nhưng không sao, biết chắc cây có nhiều trái chín thơm là mừng rồi.

Vài ngày sau ba ra đi rất đỗi nhẹ nhàng. Từ trước tới nay, tôi vẫn nghĩ căn bệnh ung thư thật đớn đau, khủng khiếp, chẳng thể nào có một cái chết nhẹ nhàng. Nhưng cái chết của ba thì đúng như ba nói: “Mình sống trọn cuộc đời chẳng hại gì ai, thương yêu mọi người thì cái chết sẽ đến rất êm, qua thế giới bên kia cũng có nhiều ấm áp”.

Thú thực, trước khi ba mất, tôi chưa từng nghĩ tới chuyện có thế giới bên kia hay không. Nhưng sau đó, mỗi khi thắp nhang lên bàn thờ ba, tôi vẫn dọn hai dĩa trái cây, một dĩa nhỏ cúng ba, một đĩa lớn hơn để ba mời những người khác, nhất là những đứa nhỏ xung quanh ba. Bởi tôi biết ông chưa bao giờ ăn miếng ngon một mình. 

Truyện ngắn của: VÕ THU HƯƠNG

 
;
.