TĂNG CƯỜNG XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG VÀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH; BẢO ĐẢM QUỐC PHÒNG, AN NINH VỮNG CHẮC; NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG VÀ NIỀM TIN CỦA NHÂN DÂN; TIẾP TỤC XÂY DỰNG BÀ RỊA – VŨNG TÀU THÀNH TỈNH MẠNH VỀ CÔNG NGHIỆP, CẢNG BIỂN, DU LỊCH VÀ NÔNG NGHIỆP ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ CAO
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ VII diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến rất nhanh, phức tạp, khó lường, đất nước đang đứng trước nhiều thuận lợi, thời cơ, thách thức đan xen; tình hình dịch bệnh Covid - 19 đã và đang được ngăn chặn, khống chế, đẩy lùi hiệu quả; các tiềm năng, thế mạnh của tỉnh đang tiếp tục được phát huy, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển nhanh, bền vững trong giai đoạn tiếp theo. Các cấp ủy đảng, chính quyền, dân và quân trong tỉnh thực hiện thắng lợi nhiều chủ trương, mục tiêu và nhiệm vụ đã được xác định trong nhiệm kỳ 2015-2020 và đang tích cực thi đua lập thành tích chào mừng đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng, kỷ niệm 75 năm Quốc khánh (2/9/1945-2/9/2020), 30 năm thành lập tỉnh (1991-2021). Đại hội có nhiệm vụ đánh giá đầy đủ, toàn diện kết quả đạt được của nhiệm kỳ 2015 -2020 và xác định mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm cho nhiệm kỳ 2020-2025; kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa VI, bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa VII và Đoàn đại biểu dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII.
Phần thứ nhất
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ 5 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TỈNH LẦN THỨ VI, NHIỆM KỲ 2015-2020
Việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI, nhiệm kỳ 2015-2020 diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế thế giới và trong nước đang dần trên đà phục hồi; dòng vốn chuyển dịch đầu tư từ bên ngoài vào trong nước, trong tỉnh ngày càng tăng; tình hình kinh tế vĩ mô của đất nước ổn định; công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được trung ương đẩy mạnh toàn diện, quyết liệt, đạt nhiều kết quả tích cực; Đảng bộ tỉnh có quyết tâm chính trị cao trong công tác xây dựng Đảng và thực hiện mục tiêu phát triển bền vững; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm, đã tạo được niềm tin trong nhân dân và tạo đà để Bà Rịa - Vũng Tàu phát triển.
Tuy nhiên, giá dầu liên tục biến động làm ảnh hưởng đến kế hoạch thu ngân sách tỉnh; hệ thống hạ tầng kết nối cụm cảng Cái Mép - Thị Vải với các địa phương, khu công nghiệp trong khu vực, việc nạo vét luồng lạch, Trung tâm Kiểm tra chuyên ngành chậm được đầu tư gây khó khăn, hạn chế trong việc khai thác hệ thống cảng và logistics; nguồn vốn đầu tư hạ tầng hạn hẹp, còn tư duy trông chờ vào nguồn hỗ trợ của trung ương; tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của một số địa phương trong khu vực có những diễn biến phức tạp; tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn ra vào năm cuối của nhiệm kỳ đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến tỉnh trên nhiều lĩnh vực. Đây là những thách thức không nhỏ trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI.
Qua 5 năm thực hiện Nghị quyết, Đảng bộ tỉnh đã đạt được những thành quả quan trọng, toàn diện trên tất cả các mặt, cụ thể như sau:
I. KINH TẾ DUY TRÌ TĂNG TRƯỞNG, PHÁT TRIỂN VỮNG CHẮC, KHẲNG ĐỊNH VAI TRÒ LÀ MỘT CỰC TĂNG TRƯỞNG QUAN TRỌNG CỦA CẢ NƯỚC VÀ TẠO NỀN TẢNG QUAN TRỌNG ĐỂ TIẾP TỤC BỨT PHÁ TRONG GIAI ĐOẠN TIẾP THEO
1. Có 12/15 chỉ tiêu kinh tế, 9/10 chỉ tiêu môi trường đạt và vượt Nghị quyết1.
2. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng mạnh tỷ trọng công nghiệp-xây dựng, giảm tỷ trọng dịch vụ và nông nghiệp: Công nghiệp - xây dựng chiếm 58,08% (tăng 3,15% so với năm 2015), dịch vụ chiếm 30,36% (giảm 1,88%) và nông nghiệp chiếm 11,55% (giảm 1,28%). GRDP bình quân đầu người năm 2020 đạt 7.070 USD.
3. Công nghiệp phát triển ổn định theo hướng bền vững, có chọn lọc và bảo vệ môi trường, tiếp tục duy trì vai trò là ngành động lực, đóng góp lớn nhất trong cơ cấu kinh tế của tỉnh
- Giá trị sản xuất công nghiệp trừ dầu khí duy trì tăng trưởng khá qua các năm; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo tăng cao từ chiếm 52% năm 2015 lên 85% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp, tỷ trọng công nghiệp khai thác giảm mạnh.
- Tỉnh luôn thực hiện nhất quán quan điểm phát triển công nghiệp theo chiều sâu, có chọn lọc, trở thành tỉnh kiểu mẫu về phát triển công nghiệp gắn với bảo vệ môi trường. Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã ban hành Nghị quyết về phát triển công nghiệp chất lượng cao và công nghiệp hỗ trợ; tập trung thu hút, thúc đẩy khởi công xây dựng được một số dự án có vốn đầu tư lớn, giá trị gia tăng cao, có sức cạnh tranh, lan tỏa2. Phát triển công nghiệp hỗ trợ được định hướng cụ thể, thu hút được nhiều dự án hơn. Đến nay có 24 dự án hoạt động về lĩnh vực công nghiệp chất lượng cao; 81 cơ sở hoạt động về công nghiệp hỗ trợ.
Hệ thống cảng biển Cái Mép - Thị Vải có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới. Trong ảnh: Tàu YM WISDOM trọng tải 14.000 TEUs cập cảng TCIT. |
- Quy hoạch, không gian các khu công nghiệp được điều chỉnh phù hợp với mục tiêu phát triển của tỉnh, trong đó đã điều chỉnh diện tích Khu công nghiệp B1- Conac, thay đổi công năng Khu công nghiệp dầu khí Long Sơn, thành lập mới Khu công nghiệp ứng dụng công nghệ cao Hắc Dịch; Khu công nghiệp Phú Mỹ 3, Khu công nghiệp Đá Bạc cơ bản đã hoàn thiện hạ tầng và thu hút được nhiều dự án công nghệ hiện đại, năng lượng sạch, thân thiện với môi trường. Tỷ lệ lấp đầy các khu công nghiệp đã nâng từ 33,5% năm 2015 lên 50,9% trên tổng số khu công nghiệp được thành lập và đạt gần 70% trên 12 khu công nghiệp đã hoàn thiện hạ tầng.
- Các cụm công nghiệp được rà soát, xác định lại số lượng, quy mô, địa bàn phân bổ nhằm thực hiện đúng chủ trương của tỉnh. Đã điều chỉnh giảm quy hoạch từ 44 cụm còn 14 cụm; cho chủ trương thành lập cụm công nghiệp Xuyên Mộc để giải quyết việc làm lao động tại chỗ; cụm công nghiệp Hòa Long đã hoàn thành và đưa vào hoạt động; cụm công nghiệp Phước Thắng đang được chỉ đạo thúc đẩy tiến độ.
4. Hệ thống cảng biển có sự chuyển biến mạnh mẽ, dịch vụ hậu cần cảng được quan tâm đầu tư và đạt kết quả tích cực
- Đã chủ động triển khai nhiều giải pháp cụ thể để nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống cảng trung chuyển quốc tế Cái Mép - Thị Vải. Hiện nay, Cái Mép - Thị Vải là một trong 21 cảng có thể tiếp nhận tàu có trọng tải 200.000 tấn và thuộc nhóm cảng có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới; khối lượng hàng hóa và số lượng tàu vào cảng tăng nhanh, trong đó tàu có trọng tải trên 50.000 tấn chiếm 90%: Tổng khối lượng hàng hóa thông qua cảng năm 2019 đạt 71,1 triệu tấn, tăng bình quân 12%/năm, số lượng tàu container tăng từ 9 chuyến/tuần năm 2015 lên 24 chuyến/tuần. Đang triển khai đầu tư nhiều tuyến đường giao thông quan trọng kết nối với cảng như đường Liên cảng, 991B, Phước Hòa - Cái Mép, Long Sơn - Cái Mép; chuẩn bị đầu tư cầu Phước An kết nối hệ thống cảng với cao tốc Bến Lức - Long Thành - Dầu Giây và đầu tư cao tốc Biên Hòa- Vũng Tàu.
- Dịch vụ hậu cần cảng có những chuyển biến tích cực với nhiều dự án đã và đang được đầu tư; trong 5 năm có 152 ha kho bãi đi vào hoạt động, nâng tổng diện tích kho bãi lên 266 ha. Cho chủ trương chuyển đổi công năng một số khu đất phù hợp để phát triển logistics; đang chuẩn bị thủ tục lựa chọn nhà đầu tư Trung tâm Logistics Cái Mép Hạ, thủ tục đầu tư Trung tâm Kiểm tra chuyên ngành tại cụm cảng Cái Mép - Thị Vải. Công tác cải cách thủ tục, rút ngắn thời gian thông quan hàng hóa qua cảng được triển khai đồng bộ, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu3.
5. Du lịch có nhiều chuyển biến, tạo được sức hút đối với các nhà đầu tư lớn
- Công tác lãnh đạo, chỉ đạo phát triển du lịch được tập trung thực hiện. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã ban hành Nghị quyết về phát triển du lịch theo hướng chất lượng cao, bền vững, bảo vệ môi trường sinh thái, trong đó chú trọng thúc đẩy phát triển các cơ sở lưu trú, sản phẩm du lịch mới gắn với thương hiệu quốc tế để thu hút dòng khách cao cấp.
- Quyết liệt triển khai nhiều giải pháp để cải thiện môi trường du lịch như: Làm sạch bãi biển, quản lý giá dịch vụ, cung cấp thông tin, bảo đảm an ninh - an toàn cho du khách. Triển khai nhiều hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch trên phương tiện truyền thông trong nước và quốc tế; phát triển thêm 53 tour, tuyến du lịch và 15 sản phẩm du lịch mới. Thu hút, kêu gọi nhiều nhà đầu tư đến trình bày ý tưởng các dự án du lịch lớn; đưa vào khai thác kinh doanh một số dự án du lịch cao cấp4; hành lang du lịch tuyến ven biển Vũng Tàu - Long Hải - Phước Hải - Bình Châu đang được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ thành tuyến du lịch trọng điểm, chất lượng cao của tỉnh với 129 dự án đầu tư5. Lượng khách lưu trú tăng 14,3%/năm, trong đó khách quốc tế tăng 14%/năm.
6. Các ngành dịch vụ phát triển đa dạng, chất lượng ngày càng cao, đáp ứng tốt nhu cầu xã hội; thị trường xuất khẩu được mở rộng
Mạng lưới siêu thị, cửa hàng tiện lợi phát triển mạnh mẽ6, góp phần thay đổi dần thói quen mua sắm của người dân; dịch vụ vận tải ngày càng phát triển, đáp ứng nhu cầu đi lại với chất lượng ngày càng tốt hơn. Xuất khẩu tăng trưởng khá cả về kim ngạch và số lượng mặt hàng7, nhiều sản phẩm có khả năng cạnh tranh ở các thị trường yêu cầu cao như EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ…. Hệ thống ngân hàng phục vụ tốt cho các hoạt động kinh tế và tiêu dùng, doanh số cho vay, dư nợ tín dụng... đều tăng trưởng; mặt bằng lãi suất huy động tương đối ổn định, lãi suất cho vay có chiều hướng giảm. Dịch vụ bưu chính, viễn thông ngày càng đa dạng, tạo thuận lợi cho yêu cầu phát triển kinh tế, cải cách hành chính, bảo đảm quốc phòng - an ninh và đời sống người dân. Dịch vụ tư vấn pháp lý ngày càng mở rộng cho nhiều đối tượng.
7. Nông nghiệp đang được tập trung phát triển theo hướng ứng dụng công nghệ cao; chương trình xây dựng nông thôn mới đạt nhiều kết quả tích cực, tạo chuyển biến rõ nét trong bộ mặt của các vùng nông thôn
Thu hoạch rau củ quả tại Công ty CP Nông nghiệp công nghệ cao Vifarm. |
- Sản xuất nông nghiệp tăng trưởng ổn định, tỷ trọng chăn nuôi ngày càng tăng. Đến nay, chăn nuôi chiếm 44,97% trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp, tăng 1,68% so với năm 2015 và trồng trọt chiếm 55,03%, giảm 1,68%; trong đó, tỷ trọng các sản phẩm ứng dụng công nghệ cao chiếm 30%. Đã ban hành Đề án và quy hoạch hơn 5.000 ha đất để phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao8; đến nay, có 61 tổ chức, cá nhân đầu tư mô hình sản xuất trồng trọt với diện tích 2.819 ha và 131 trang trại nuôi heo, gia cầm, 17 cơ sở nuôi tôm với diện tích 391 ha ứng dụng công nghệ cao. Số lượng và khối lượng nông sản sạch đưa ra thị trường ngày càng nhiều; đã hình thành 33 chuỗi sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông sản sạch và 46 cửa hàng kinh doanh thực phẩm theo chuỗi thực phẩm an toàn.
- Thủy sản được thúc đẩy theo hướng chất lượng, giá trị cao và bảo vệ môi trường với quy mô hợp lý; theo đó, việc chuyển đổi từ tàu nhỏ sang tàu lớn khai thác xa bờ ngày càng nhiều, đội tàu dịch vụ hậu cần thủy sản phát triển, sản lượng khai thác tăng bình quân 1,2%/năm. Đã đầu tư hoàn thành giai đoạn 1 các khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá tại Sông Dinh và Côn Đảo; đang triển khai Đề án thành lập Trung tâm Nghề cá lớn tại khu vực Gò Găng, thành phố Vũng Tàu. Tình trạng tàu cá vi phạm vùng biển nước ngoài và khai thác hải sản bất hợp pháp giảm mạnh. Triển khai sắp xếp lại không gian nuôi thủy sản lồng bè theo hướng bền vững, ổn định diện tích nuôi trồng 6.800 ha, chú trọng nuôi những loại có giá trị; hình thành mô hình nuôi ứng dụng theo các tiêu chuẩn an toàn như VietGAP, GlobalGAP, BAP, ASC.
- Quan tâm chỉ đạo, trồng mới rừng và cây xanh; định hướng cho các địa phương phải quy hoạch, dành đất để phát triển các khu dân cư, đô thị với mật độ cây xanh cao. Đã trồng mới 3.231 ha rừng tập trung, tăng 28% so với năm 2015; 358 ha rừng ngập mặn và 274.200 cây phân tán các loại; tỷ lệ che phủ cây xanh đạt 43,94%, trong đó tỷ lệ che phủ rừng đạt 13,7%.
Hiện nay, tỷ trọng các sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao chiếm 30% giá trị sản xuất nông nghiệp. Trong ảnh: Mô hình trồng rau thủy canh công nghệ cao của ông Trần Viết Quang (thôn Hữu Phước, xã Suối Nghệ huyện Châu Đức). |
- Chương trình xây dựng nông thôn mới được chú trọng, huy động được nhiều nguồn lực tham gia đầu tư với 11.250 tỷ đồng, trong đó ngân sách chiếm 26,3%, vốn xã hội chiếm 73,7%. Đến nay, toàn tỉnh có 36/45 xã và 01 đơn vị cấp huyện được công nhận nông thôn mới, trong đó có 7 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao; thu nhập bình quân đầu người tại các xã nông thôn mới đạt khoảng 54 triệu đồng/người/năm, tăng 20 triệu đồng so với đầu nhiệm kỳ. Chương trình mỗi xã một sản phẩm được tích cực triển khai, đã có trên 100 sản phẩm ở 45 xã với các loại hình phong phú, đa dạng.
8. Thu hút đầu tư, phát triển doanh nghiệp, kinh tế hợp tác được thực hiện tích cực, chủ động; tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội vượt chỉ tiêu Nghị quyết, tỷ trọng vốn đầu tư nhà nước giảm, vốn đầu tư xã hội tăng mạnh; môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện, tính năng động của bộ máy, sự minh bạch, hiệu quả trong giải quyết các thủ tục của nhà đầu tư và doanh nghiệp được nâng lên
- Với mục tiêu xây dựng mô hình phát triển kinh tế bền vững, tỉnh luôn kiên trì thực hiện chủ trương thu hút đầu tư có chọn lọc gắn với bảo vệ môi trường và kiểm soát thâm dụng lao động. Triển khai nhiều giải pháp để nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư và công tác xã hội hóa9. Qua 5 năm, đã cấp phép mới cho 163 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đăng ký 3,2 tỷ USD, vượt 63 dự án, 200 triệu USD và 216 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đăng ký 82 ngàn tỷ đồng, vượt 116 dự án, 32 ngàn tỷ đồng so với Nghị quyết; điều chỉnh tăng vốn 96 dự án đầu tư nước ngoài và 51 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đăng ký tăng thêm 2,57 tỷ USD và 15 ngàn tỷ đồng; chấm dứt hoạt động 164 dự án và giãn tiến độ cho 82 dự án; thu hút được 8 công trình, dự án xã hội hóa.
- Tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 232.488 tỷ đồng; trong đó vốn đầu tư từ ngân sách 40.443 tỷ đồng, chiếm 17,4%, vốn đầu tư của doanh nghiệp 192.045 tỷ đồng, chiếm 82,6%. Năng lực mới tăng thêm từ đầu tư gồm 129 công trình vốn ngân sách và 136 công trình vốn ngoài ngân sách10.
- Kinh tế tư nhân được quan tâm, hỗ trợ phát triển. Thực hiện nhiều biện pháp, chính sách để cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh11, hỗ trợ doanh nghiệp12. Số lượng doanh nghiệp tăng 79,3%, đóng góp cho ngân sách tăng 49,4% so với năm 2015, giải quyết việc làm cho 123.909 lao động. Thành lập mới khoảng 7.800 doanh nghiệp tăng 44,2%, với tổng vốn đăng ký hơn 74 ngàn tỷ đồng tăng 85,8%. Thành lập mới 85 hợp tác xã, vượt 27% kế hoạch.
9. Công tác quản lý quy hoạch, kiến trúc, xây dựng được quan tâm chỉ đạo, tính kịp thời và chất lượng, hiệu quả được nâng lên
Công tác lập, điều chỉnh quy hoạch được thực hiện thường xuyên, đáp ứng kịp thời cho yêu cầu phát triển; tập trung chỉ đạo, cho ý kiến về quy hoạch một số khu vực, địa phương trên địa bàn tỉnh; việc điều chỉnh quy hoạch bảo đảm đúng nguyên tắc chỉ nhằm mục tiêu đem lại lợi ích nhiều hơn cho cộng đồng, xã hội, phục vụ tốt hơn cho người dân. Đến nay đã lập, điều chỉnh 144 quy hoạch, trong đó có Quy hoạch xây dựng chung thành phố Vũng Tàu; tất cả 10 đô thị đều đã được phê duyệt quy hoạch chung và có quy chế quản lý quy hoạch, kiến trúc đô thị. Công tác quản lý kiến trúc và đầu tư xây dựng công trình được quan tâm thực hiện theo quy hoạch xây dựng đô thị được duyệt.
10. Công tác quản lý đất đai, tài nguyên và bảo vệ môi trường được tăng cường, huy động cả hệ thống chính trị cùng tham gia
10.1. Về quản lý đất đai, tài nguyên
- Công tác quản lý đất đai được siết chặt ở cả 3 cấp, đặc biệt là việc quản lý, khai thác, đấu giá đất công13. Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đạt 98,63%. Thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất 11 khu với tổng giá trị 1.459 tỷ đồng; đã bồi thường giải phóng mặt bằng 834 ha đất, giải quyết giao, cho thuê 3.840 ha đất cho 61 tổ chức.
- Việc quản lý, cấp phép, kiểm tra, phát hiện, xử lý khai thác khoáng sản trái phép và phục hồi môi trường đối với khai thác khoáng sản được tăng cường, qua đó đã giảm đáng kể về cả số vụ việc, quy mô và mức độ vi phạm; hoàn tất việc đóng cửa 49 mỏ khoáng sản tồn tại trước đây.
10.2. Về bảo vệ môi trường
- Công tác quản lý, bảo vệ môi trường được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và quyết liệt thực hiện. Đã ban hành Nghị quyết, Chỉ thị và triển khai nhiều biện pháp về bảo vệ môi trường14; các nguồn khí thải, nước thải trong các nhà máy thép, các dự án có phát thải lớn đều được giám sát liên tục thông qua hệ thống quan trắc tự động15; quan tâm thực hiện việc di dời các cơ sở gây ô nhiễm; kiểm tra, chỉ đạo xử lý các điểm đen về môi trường nhất là trong khu dân cư. Cơ bản hoàn thành hạ tầng 2 khu chế biến hải sản tập trung tại xã Lộc An - huyện Đất Đỏ và xã Bình Châu - huyện Xuyên Mộc.
- Đã rà soát, cập nhật và triển khai: Đề án nghiên cứu giải pháp tổng thể chống xói lở bờ biển đoạn từ Vũng Tàu đến Bình Châu; Kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu trên địa bàn tỉnh đến năm 2020, trong đó xác định 48 dự án, chương trình ưu tiên thực hiện.
11. Thu, chi ngân sách đạt nhiều kết quả tích cực
- Cơ cấu thu ngân sách thay đổi theo hướng bền vững, tích cực, tỷ trọng thu nội địa vượt cao so với thu từ dầu khí, trong đó đã triển khai nhiều giải pháp huy động các nguồn vốn khác16. Tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh 5 năm đạt 384.817 tỷ đồng, bao gồm: thu từ dầu thô ước đạt 136.638 tỷ đồng, chiếm 35,55%, giảm 56% so với giai đoạn 2011-2015; thu thuế xuất nhập khẩu đạt 92.760 tỷ đồng, chiếm 24,14%, giảm 15,6% và thu nội địa đạt 154.899 tỷ đồng, chiếm 40,3%, tăng 22,2%, trong đó thu ngân sách địa phương được hưởng 83.172 tỷ đồng, vượt 29% dự toán, đáp ứng nhu cầu chi của tỉnh.
Công nghiệp tiếp tục giữ vai trò động lực của nền kinh tế. Trong ảnh: Sản xuất linh kiện điện tử tại Công ty Dongjin (KCN Đất Đỏ 1, huyện Đất Đỏ). |
- Chỉ đạo quyết liệt chấn chỉnh, nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy tiến độ thoái vốn tại các doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện nhiều giải pháp để cắt giảm các khoản chi không hợp lý, trùng lắp; ưu tiên chi cho đầu tư phát triển và mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống người dân. Tổng chi ngân sách trong 5 năm ước đạt 83.810 tỷ đồng, trong đó: chi đầu tư phát triển 40.443 tỷ đồng, chiếm 48,3%; chi thường xuyên 42.444 tỷ đồng, chiếm 51,7%.
* Hạn chế, khuyết điểm
- Có 3 chỉ tiêu kinh tế chưa đạt Nghị quyết17.
- Công nghiệp hỗ trợ tuy đã có nỗ lực tạo không gian, điều kiện sẵn sàng cho sự phát triển nhưng kết quả thu hút chưa được như kỳ vọng; một số dự án công nghiệp lớn tiến độ còn chậm.
- Số lượng hàng hóa thông qua hệ thống cảng biển mặc dù đang tăng cao qua các năm nhưng lượng hàng container cũng mới chỉ đạt 53% công suất thiết kế cảng. Việc đầu tư hạ tầng giao thông kết nối với khu vực miền Đông Nam bộ, nạo vét luồng lạch còn chậm; không gian cho dịch vụ logistics còn ít, chưa hình thành Trung tâm Kiểm tra chuyên ngành tập trung nên ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh và hiệu quả của cụm cảng Cái Mép - Thị Vải.
- Phát triển các cơ sở nghỉ dưỡng cao cấp và sản phẩm du lịch có tăng nhưng chưa nhiều; nguồn nhân lực du lịch chưa đáp ứng được yêu cầu; việc triển khai một số dự án du lịch trọng điểm còn chậm.
- Số lượng những dự án nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được triển khai chưa nhiều. Tiến độ sắp xếp lồng bè trên sông Chà Và chậm. Vẫn còn tình trạng ngư dân xâm phạm vùng biển nước ngoài và khai thác hải sản bất hợp pháp.
- Thực hiện các chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, tiến độ triển khai, chuyển vốn đăng ký sang vốn thực hiện ở nhiều dự án đầu tư của doanh nghiệp còn chậm. Phát triển kinh tế tư nhân chưa đáp ứng yêu cầu, hoạt động của một số hợp tác xã còn hình thức, chưa hiệu quả; kêu gọi xã hội hóa đầu tư còn ít.
- Công tác quản lý quy hoạch, đất đai, xây dựng ở một số địa phương chưa chặt chẽ. Tiến độ lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch và điều chỉnh quy hoạch chậm, ảnh hưởng đến sự phát triển; việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý quy hoạch chưa đạt yêu cầu; chưa triển khai được thiết kế đô thị ở các tuyến đường, phố chính.
- Quản lý đất đai có tiến bộ nhưng chưa khai thác hiệu quả nguồn lực đất đai, công tác bồi thường giải phóng mặt bằng còn chậm; việc thực hiện kế hoạch đấu giá đất công không đạt yêu cầu.
- Vẫn còn những điểm đen về môi trường chưa được kiểm soát, khắc phục triệt để. Chậm chuyển đổi xử lý rác thải sinh hoạt bằng công nghệ đốt theo lộ trình và chậm có giải pháp xử lý rác tại huyện Côn Đảo, chậm triển khai các khu chế biến hải sản tập trung, các cụm công nghiệp Hòa Long, Phước Thắng và di dời các cơ sở nông nghiệp không đúng quy hoạch.
II. CÁC LĨNH VỰC GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO, KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Y TẾ, VĂN HÓA, THỂ THAO TIẾP TỤC PHÁT TRIỂN, ĐẠT NHIỀU KẾT QUẢ TÍCH CỰC; AN SINH XÃ HỘI ĐƯỢC BẢO ĐẢM
1. Có 13/14 chỉ tiêu đạt và vượt Nghị quyết18.
2. Giáo dục và đào tạo được đặc biệt quan tâm, tập trung chỉ đạo; chất lượng dạy và học được nâng lên, môi trường giáo dục được cải thiện bảo đảm sự phát triển toàn diện của học sinh
- Tập trung thực hiện quyết liệt các giải pháp để nâng cao chất lượng dạy và học19; triển khai các hoạt động để bảo đảm sức khỏe, thể chất, tinh thần cho học sinh20. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp ở các cấp học ngày càng tăng, nhiều học sinh đã đạt được thứ hạng cao tại các cuộc thi quốc gia và quốc tế. Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp đã chuyển hướng mạnh sang đào tạo theo nhu cầu doanh nghiệp và xã hội21; qua 5 năm đã đào tạo cho khoảng 153.000 người; tỷ lệ có việc làm sau tốt nghiệp đạt 85%22.
- Ưu tiên bố trí, đầu tư cơ sở vật chất cho ngành giáo dục, đã đưa vào hoạt động thêm 18 trường học, nâng tổng số trường học các cấp từ 426 trường (năm 2015) lên 444 trường và 7 trung tâm giáo dục thường xuyên, trong đó có 264 trường đạt chuẩn quốc gia, chiếm tỷ lệ 59,46%.
3. Khoa học và công nghệ có nhiều chuyển biến, tham gia đóng góp cho cho các hoạt động kinh tế - xã hội và phục vụ đời sống người dân
Khoa học công nghệ có nhiều chuyển biến, đóng góp cho hoạt động kinh tế - xã hội, phục vụ đời sống. Trong ảnh: Mô hình nuôi tôm công nghệ cao FARM Liên Giang (xã An Ngãi, huyện Long Điền). |
- Công tác thẩm định, đánh giá, hỗ trợ ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất được quan tâm thực hiện. Đã có 136 dự án được thẩm định về công nghệ trước khi cấp phép đầu tư; hỗ trợ cho trên 314 lượt doanh nghiệp, hợp tác xã nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm; có 37 đề tài, dự án khoa học - công nghệ được triển khai thực hiện; đưa vào hoạt động Sàn giao dịch công nghệ trực tuyến. Đầu tư nguồn lực cho khoa học - công nghệ tăng 150% so với giai đoạn trước23; đang xây dựng báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư Khu Khoa học và Công nghệ biển. Phong trào khởi nghiệp được quan tâm, triển khai24; một số doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo được thành lập và phát triển.
4. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân đạt kết quả tích cực, chất lượng khám, chữa bệnh và niềm tin của người dân vào các cơ sở y tế được nâng lên
- Mạng lưới cơ sở y tế được quan tâm đầu tư25; thành lập mới 28 khoa phòng, tăng thêm 550 giường bệnh, nâng tổng số giường bệnh trên địa bàn tỉnh lên 2.414 giường, tỷ lệ giường bệnh/vạn dân đạt 20,6 giường. Cơ sở khám chữa bệnh tư nhân phát triển, đến nay có 106 cơ sở đang hoạt động, nhiều cơ sở được đầu tư hiện đại, đã đóng góp quan trọng vào hoạt động khám, chữa bệnh cho người dân.
- Cùng với việc đầu tư cơ sở vật chất, tỉnh đã triển khai Đề án nâng cao chất lượng bệnh viện công giai đoạn 2016-202026; xây dựng Bệnh viện Bà Rịa “văn minh, thân thiện, hiện đại”. Đội ngũ y tế tiếp tục được đào tạo, bồi dưỡng, bổ sung27, nâng tỷ lệ bác sỹ/vạn dân đạt 8,7 bác sỹ. Đạo đức, phong cách, thái độ phục vụ, trình độ chuyên môn của cán bộ y tế được chú trọng, nâng cao. Đã triển khai 206 kỹ thuật mới, trong đó có nhiều kỹ thuật phức tạp28; trung tâm y tế tuyến huyện đã triển khai được một số kỹ thuật cao trong khám, chữa bệnh của bệnh viện tuyến tỉnh29. Thực hiện có hiệu quả giải pháp thuê chuyên gia hỗ trợ cho ngành y tế.
- Y tế dự phòng được triển khai thường xuyên, liên tục, phòng, chống được một số dịch bệnh xảy ra, không để dịch phát sinh trên diện rộng; đặc biệt đã triển khai quyết liệt, hiệu quả các giải pháp phòng, chống dịch bệnh Covid-19. Công tác bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm được quan tâm, với nhiều giải pháp như: Đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền và kiểm tra về an toàn thực phẩm; hình thành các mô hình sản xuất an toàn; xây dựng xã, phường điểm về kiểm soát an toàn thực phẩm thức ăn đường phố.
5. Hoạt động văn hóa, thể thao phục vụ nhân dân được nâng lên cả về số lượng và chất lượng
- Thiết chế văn hóa, cơ sở vật chất thể thao được đầu tư ngày càng hoàn chỉnh30. Tổ chức nhiều hoạt động văn hóa văn nghệ chào mừng các ngày lễ lớn; tăng cường văn hóa đọc, hình thành một số đường sách, tăng thêm phòng đọc sách trong các cơ quan, đơn vị, cộng đồng; đang triển khai xã hội hóa các trung tâm văn hóa học tập cộng đồng để nâng cao chất lượng hoạt động.
- Tổ chức nhiều giải thi đấu thể thao31; các địa phương quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân thường xuyên luyện tập thể dục, thể thao; hình thành Câu lạc bộ Bóng đá tỉnh, tham gia thi đấu hạng Nhất cấp quốc gia; một số câu lạc bộ thể thao ở cơ sở có sức lan tỏa; các vận động viên của tỉnh đã tham gia thi đấu và giành được 906 huy chương các loại.
- Hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn cơ bản ổn định, thực hiện tốt các chính sách, pháp luật của nhà nước, đóng góp tích cực cho sự phát triển của tỉnh; công tác quản lý nhà nước về tôn giáo được các cấp chính quyền thực hiện tốt.
6. Các chính sách an sinh xã hội được thực hiện đầy đủ, đi vào thực chất, chất lượng cuộc sống người dân được nâng cao
- Công tác giảm nghèo bền vững luôn được chú trọng, đánh giá thực chất, đề ra các giải pháp đồng bộ, tạo động lực cho người nghèo vươn lên và huy động nhiều nguồn lực để thực hiện. Số hộ nghèo giảm liên tục qua các năm; tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn tỉnh còn 0,8%32, theo chuẩn quốc gia còn 0,1%33.
- Việc hỗ trợ đào tạo nghề, tạo việc làm, vay vốn tín dụng, tư vấn, hướng nghiệp sản xuất kinh doanh được thực hiện tốt, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp còn 2,28%34. Công tác phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế được tích cực triển khai, mở rộng; tỷ lệ lao động tham gia bảo hiểm xã hội đạt 34,2% (tăng 5,53%), tỷ lệ lao động tham gia bảo hiểm y tế đạt 90% (tăng 16,17%).
- Hoạt động vận động Quỹ đền ơn đáp nghĩa và vận động doanh nghiệp đóng góp trách nhiệm xã hội được tích cực triển khai35; thực hiện chính sách dành cho người có công với cách mạng, chính sách trợ cấp, chăm sóc, nuôi dưỡng các đối tượng bảo trợ xã hội đầy đủ, kịp thời; việc hỗ trợ nhà ở cho người nghèo, gia đình chính sách được triển khai rộng rãi, đã xây dựng mới và sửa chữa 1.340 căn nhà đại đoàn kết và 105 căn nhà tình nghĩa, với tổng số tiền 54 tỷ đồng.
- Công tác chăm sóc, bảo vệ trẻ em được chú trọng36; tỷ lệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt giảm từ 2,6% xuống còn 1,1%. Công tác chăm lo, phát triển đồng bào dân tộc thiểu số được quan tâm thực hiện; 100% sống ở vùng khó khăn được cấp thẻ bảo hiểm y tế; 98% hộ có nhà bán kiên cố trở lên; tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 1,64% theo chuẩn quốc gia, 2,37% theo chuẩn tỉnh.
- Do triển khai đồng bộ nhiều giải pháp để phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội nên chất lượng cuộc sống của người dân được nâng cao. GRDP/người tăng lên 7.070 USD; thu nhập bình quân đầu người tại các xã nông thôn mới tăng lên 54 triệu đồng/người/năm; môi trường sống, điều kiện hưởng thụ văn hóa, tinh thần của người dân ngày càng tốt hơn.
* Hạn chế, khuyết điểm
- Có 01 chỉ tiêu xã hội chưa đạt Nghị quyết37.
- Vẫn còn tình trạng thiếu phòng học; tỷ lệ huy động trẻ đến nhà trẻ ở một số địa bàn còn thấp. Cán bộ quản lý giáo dục có nơi chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới.
- Chất lượng khám, chữa bệnh có mặt vẫn còn hạn chế, chưa tạo được niềm tin của người dân; chưa phát triển nhiều các dịch vụ khám, chữa bệnh kỹ thuật cao; việc thu hút và giữ chân đội ngũ bác sỹ chưa đáp ứng yêu cầu.
- Việc ứng dụng các đề tài nghiên cứu khoa học - công nghệ vào thực tiễn chưa nhiều, hiệu quả chưa cao; chưa có nhiều mô hình khởi nghiệp và tạo được hệ sinh thái khởi nghiệp hiệu quả.
- Công tác bảo tồn, phát huy các di tích văn hóa lịch sử để phục vụ cho giáo dục truyền thống và phát triển du lịch vẫn còn yếu kém; hoạt động văn hóa chưa thật sự sôi nổi, rộng khắp.
- Xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao còn ít.
- Tình trạng xâm hại trẻ em vẫn còn diễn ra và có chiều hướng gia tăng.
- Chất lượng cuộc sống, thu nhập của người dân ở một số địa bàn, nhất là khu vực nông thôn, người lao động nghèo chưa đạt yêu cầu, vẫn cần sự quan tâm, nỗ lực chăm lo nhiều hơn của các cấp, các ngành.
------
(Xem tiếp kỳ sau)